Tình yêu như trái phá con tim mù loà.
Love is like an explosive shell of a heart gone blind.
Một mai thức dậy, chợt hồn như ngất ngây, chợt buồn trong mắt nai, rồi tình vui trong mắt, rồi tình mềm trong tay.
One day it awakens, suddenly it’s like its soul as in rapture, suddenly it’s sad in deer’s eyes, then happy love is in its eyes, then tender love is in its hands
Tình yêu như vết cháy trên da thịt người.
Love is like a burn’s scar upon man’s flesh.
Tình xa như trời, tình gần như khói mây, tình trầm như bóng cây, tình reo vui như nắng, tình buồn làm cơn say
Love is distant like the sky, love is close like smoky clouds, love is deep like a tree’s shadow, love cheers like sunlight, sad love makes passion
Cuộc tình lên cao vút như chim mỏi cánh rồi, như chim xa lìa bầy, như chim xa lìa trời, như chim bỏ đường bay
Love climbs to dizzying heights like a bird with tired wings, like a bird that has shunned the flock, has shunned the sky, like a bird that has abandoned its flight path
Tình yêu như trái chín trên cây rụng rời, một mai thức dậy chuyện trò với lá cây, rồi buồn như lá bay
Love is like a ripe fruit upon the staggering tree, one day it will awaken to chat with the leaves, then sadly the leaves will fly off
Một giòng sông nước cuốn, một cuộc tình không may
A river with rippling waters, a love without luck
Tình yêu như thương áo quen hơi ngọt ngào
Love is like pity blouse, its fragrance slightly sweet
Rời nhau hôm nào, hồn mình như vá khâu, buồn mình như lũng sâu
Separating one day, our souls are as if they were knitted, saddened like a deep valley
Rồi tình trong im tiếng, rồi tình ngoài hư hao
Then love is amidst muteness, then love is beyond havoc
Tình yêu như nỗi chết cơn đau thật dài.
Love is like feelings of death, pain’s spasms, truly long lasting
Tình khâu môi cười, hình hài xưa đã thay, mặn nồng xưa cũng phai, tình chia nhau gian dối, tình đày tình đôi nơi
Love is sewn into smiling lips, the olden form has changed, olden ardor also fades, love deceitfully separated, banished love, love in two places
Tình yêu như cơn bão đi qua địa cầu
Love is like the storm surge going past the globe
Tình thắp cơn sầu, tình dìu qua hố sâu, tình vời lên núi cao
Shallow love, the mournful surge, love led by hand past the deep lake, distant love ascending high mountains
Rồi trong cơn yêu dấu, tình đày tình xa nhau
Then midst love’s surge, banished love, love apart
Cuộc tình lên cao vút như chim mỏi cánh rồi, như chim xa lìa bầy, như chim xa lìa trời, như chim bỏ đường bay
Love climbs to dizzying heights like a bird with tired wings, like a bird that has shunned the flock, shunned the sky, like a bird that has abandoned the flight path
Tình yêu cho anh đến bên cơn muộn phiền, tình đi âm thầm, nghìn trùng như vết sương, lạnh lùng như dấu chim.
Your love for me arrives tedium’s side, love departs sombrely, vast distances like fog’s traces, cold like a bird’s footprint.
Tình mong manh như nắng, tình còn đầy không em?
Ephemeral love is like sunshine, is love still full dear?
Tình yêu như đốt sáng con tim tật nguyền, tình lên êm đềm, vội vàng nhưng chóng quên, rộn ràng nhưng biến nhanh,
Love is like the bright burning of a cursed heart, love arises to quietude, hurried but forgetful, animated but vanishing swiftly,
Tình cho nhau môi ấm, một lần là trăm năm.
Love we give each other warm lips, one time is hundred years
Một vài nhận xét.
1) chữ "cơn" - lời ca này có 6 cơn (say, đau, bão, sầu, yêu dấu, muộn phiền). Cơn là một từ bổ nghĩa, dịch như "the" thì cũng hợp lý. Theo từ điển thì nghĩa là "outburst, fit, gust." Tôi có vài lần dịch cơn là "surge" [surge = rise and fall or toss on waves; rise in great waves or billow; rising of a person's or crowd's feelings, thoughts]. Cơn thì không phải một từ để nói chuyện bình thường hằng ngày, nhưng rất với thơ và có lẽ hợp với ca khúc nhiều hơn. Cơn không dấu thì dễ phổ hơn những từ như những, các, sự, v.v.
2) ca từ của tình ca này chỉ có một đoạn "anh em" là: "Tình yêu cho anh đến bên cơn muộn phiền, tình đi âm thầm, nghìn trùng như vết sương, lạnh lùng như dấu chim. / Tình mong manh như nắng, tình còn đầy không em?" "Muộn phiền" có phải là "anh" từ coi mình là nguồn muộn phiền, hay coi "em" là nguồn muộn phiền (hay tình yêu là nguồn muộn phiền?). Tình yêu ấy đến rồi "đi âm thầm" và không để lại gì mấy - vết sương, và vết chân chim không đủ ấm. Tình thì còn thì được ấm nhờ "nắng". Các vết mong mang này hình như có phải gọi là đầy? Có lẽ trong cuộc tình (nhất là tình sầu) thì sự đầy vời không thể đủ?
3) Lời ca này có rất ít dấu hỏi. Chỉ có chữ "mỏi" và "bỏ" trong cái đoạn điệp khúc "Cuộc tình lên cao vút như chim mỏi cánh rồi, như chim xa lìa bầy, như chim xa lìa trời, như chim bỏ đường bay." Một con chim bay cao là tiêu biểu cho tự do, sự thoai mái. Được tự do là thấy mệt, là thấy bị cô lập. "Chim xa lìa trời" là như con người xa lìa đời người, trần gian. "Bỏ đường bay" là bỏ lối mòn, bỏ đời thường? Con chim này muốn tự do là được nhiều và mất nhiều hơn (nhưng vẫn ưa)?
4) Lời ca cũng hai lần có tình yêu sẽ "một mai thức dậy." Thức dậy để giấc ngộ? Để nhận hiểu cái gì đó về mình? Thức dậy để quay trở lại với một đời thường không thuộc vào cuộc tình sầu này? Một mai có ý nghĩa là chưa đến lúc. Có lẽ phải đợi đến lúc mà hai người không còn nhau?
Giai điệu của "Tình sầu" rất hay - nghe êm đềm, vừa phải. Ca từ thì không êm đềm--các nhân vật "sống" ở trong ca từ này là như bị đập vỡ bởi các "cơn" rồi phải thức rồi thấy mỏi. Có lẽ ý bài này là các điều đau đứn, phức tạp, bất ổn, khó hiểu đều nên đón, nên mừng, nên thấy như có thể cứ sống qua.
Bad Readers
6 giờ trước
3 nhận xét:
Mấy giải thích của em để đính chính cho Jason nhé:
Tình yêu như trái phá con tim mù loà.
Love is like an explosive shell of a heart gone blind. - > Có lẽ không dịch được thế này, vì cấu trúc lời ca của TCS thường là song đôi. Có thể hiểu tình yêu như trái phá (sự bất ngờ), và con tim thì mù lòa nên không nhận thức được. Nên chữ of ở đây là không cần thiết. Con tìm mù lòa chỉ là 1 định đề ngang hàng với Tình yêu như trái phá thôi. Vì trong nhạc TCS, cũng không chắc rằng có thể nói bởi cái này nên gây ra cái kia.
Một mai thức dậy, chợt hồn như ngất ngây, chợt buồn trong mắt nai, rồi tình vui trong mắt, rồi tình mềm trong tay.
One day it awakens, suddenly it’s like its soul as in rapture, suddenly it’s sad in deer’s eyes, then happy love is in its eyes, then tender love is in its hands
-> thức dậy ở đây chính là tác giả, nên phải dịch là One day I (we) awaken… Mắt nai có lẽ không nên dịch là deer’s eyes, mắt nai chỉ có nghĩa như là mắt đẹp, mắt nhung (người Việt hay so sánh mắt nai, mắt bồ câu, hoặc ác thì là mắt lươn). Tình mềm nên dịch chữ mềm là động từ.
Tình yêu như vết cháy trên da thịt người.
Love is like a burn’s scar upon man’s flesh.
Tình xa như trời, tình gần như khói mây, tình trầm như bóng cây, tình reo vui như nắng, tình buồn làm cơn say
Love is distant like the sky, love is close like smoky clouds, love is deep like a tree’s shadow, love cheers like sunlight, sad love makes passion
-> cơn say ở đây có thể hiểu là say rượu, say men, say thuốc. Dịch là passion e chưa chuẩn.
Cuộc tình lên cao vút như chim mỏi cánh rồi, như chim xa lìa bầy, như chim xa lìa trời, như chim bỏ đường bay
Love climbs to dizzying heights like a bird with tired wings, like a bird that has shunned the flock, has shunned the sky, like a bird that has abandoned its flight path
-> Mỏi cánh rồi là ngắt sang một ý mới, nghĩa là cuộc tình lên cao vút, rồi lại mỏi cánh… là ý nối tiếp. Bỏ đường bay như là bỏ cuộc.
Tình yêu như trái chín trên cây rụng rời, một mai thức dậy chuyện trò với lá cây, rồi buồn như lá bay
Love is like a ripe fruit upon the staggering tree, one day it will awaken to chat with the leaves, then sadly the leaves will fly off
- > Thức dậy ở đây vẫn là người tác giả, nhưng ẩn chủ ngữ. Rồi buồn như lá bay = người đó buồn như cảnh lá bay.
Tình yêu như thương áo quen hơi ngọt ngào
Love is like pity blouse, its fragrance slightly sweet\
Thương ở đây không thể dịch là pity, mà thương là thương yêu – người miền Nam vẫn nói yêu là thương (e.g: hai đứa chúng nó thương nhau từ lâu rồi). Cả cụm đó nên hiểu là như tình thương yêu đã quen như chiếc áo có mùi hơi của người tình.
Rồi tình trong im tiếng, rồi tình ngoài hư hao
Then love is amidst muteness, then love is beyond havoc
- > Ngoài có lẽ không cần dịch là beyond, vì cấu trúc sóng đôi trong-ngoài chỉ đơn giản chỉ nơi chốn tương đối thôi.
Tình khâu môi cười, hình hài xưa đã thay, mặn nồng xưa cũng phai, tình chia nhau gian dối, tình đày tình đôi nơi
Love is sewn into smiling lips, the olden form has changed, olden ardor also fades, love deceitfully separated, banished love, love in two places
- >Tình chia nhau gian dối – nên dịch là separated the deceit.
Tình thắp cơn sầu, tình dìu qua hố sâu, tình vời lên núi cao
Shallow love, the mournful surge, love led by hand past the deep lake, distant love ascending high mountains
Có thể dịch là love lights a melancholy… tình dìu qua hố sâu, tình vời lên núi cao – tình ở đây đại diện cho người yêu nhau, chủ động. Nên các động từ cũng là chủ động.
Mấy cái câu hỏi của anh ở dưới thì có mấy ý trao đổi:
- Nhận xét về từ "Cơn" của anh rất hay. Cơn muộn phiền ở đây theo quan niệm siêu thực mà TCS ảnh hưởng của triết học Hesse hay văn Camus, cũng như ảnh hưởng Phật giáo, là cái sẵn có, con người chấp nhận làm bạn với nó. Trong ca từ TCS hay có những biểu tượng không xác định nguyên nhân, chúng là những định đề mang màu sắc triết học. Với những ca khúc phản chiến thì các biểu tượng "mù" này ít đi.
- Chim bỏ đường bay có lẽ chỉ đơn giản là hình thái tu từ lặp lại ý niệm "bỏ cuộc chơi" hoặc "chết" mà ba cụm trước đã nói: chim mỏi cánh rồi, Chim xa lìa bầy, xa lìa trời, có khác là chúng nâng dần cấp độ, "bỏ đường bay" là cái chứng tỏ sự biến mất vĩnh viễn của một sinh vật vốn lấy sự bay làm mục đích sống. Ca từ TCS rất phổ biến cách diễn đạt sóng đôi và nâng cấp độ như vậy.
- Một mai thức dậy: có lẽ chỉ đơn giản là một buổi sớm nào đó trong đời, chứ không mang ý niệm chờ đợi hay là chưa đến lúc. Nên lưu ý là trước đó, tình yêu lúc nào cũng vùi trong cơn say, nên cơn tỉnh là bất chợt, không đoán trước.
TCS's music gained a more elevated position in my heart with this post and the comments that followed.
Đăng nhận xét