27 tháng 12, 2010

Light Music and the Radio Listener (Nhạc nhẹ và thính giả đài) - Gerhard Schmidtchen (1979)

Gerhard Schmidtchen, “Light Music and the Radio Listener,” in Entertainment: A Cross-Cultural Examination (New York: Hastings House, Publishers, 1979) 286-298.

p. 290 - “Who am I?” is the question facing young people. We know from investigations that young people take themselves more severely to task than older people. The thought “I would like to change the kind of person I am” is common among younger people, but occurs to them less frequently as they grow older. During this phase, the personality is confronted by a particularly serious set of problems related to the control of their emotional makeup. And it is in this area that light music probably has a function...

“Tôi là ai?” chính là câu hỏi trước mặt lớp trẻ. Chúng tôi biết qua sự điều tra nghiên cứu rằng lớp trẻ tự phê bình nặng nề hơn người lớn tuổi hơn. Cái ý “tôi muốn thay đổi loại người là tôi rồi” là chuyện bình thường với người trẻ, nhưng ý ấy nảy ra ít hơn khi họ lớn lên. Trong giai đoạn ấy, cái nhân cách phải đương đầu với một đống vấn đề nặng liên quan với việc điều khiển bản chất cảm xúc của họ. Và chính trong lĩnh vực này mà nhạc nhẹ có chức năng...

p. 291 - Hence music is not simply music, important cognitive and social structure are dependent upon it. Music--indeed the music that we would classify as popular music in its widest sense--has become the symbol of the cultural revolution that has taken place among young people. It is possible that the Beatles have contributed more to the “modern spirit” that was inspired by the younger generation and that has so affected our institutions than we are at present capable of recognizing. In any case, we feel entitled to say that this music has not contributed to any social anaesthetization but rather to its exact opposite.

Vậy nhạc không chỉ đơn giản là nhạc, một cấu trúc về nhận thức và xã hội cũng phụ thuộc vào nó. Nhạc--quả thực là nhạc mà chúng ta sẽ phân loại là nhạc phổ thống với ý nghĩa rộng rãi nhất--thành ký hiệu của cách mạng văn hóa đã xây ra với lớp trẻ. Rất có thể là nhóm The Beatles đã gốp phần nhiều cho “xu hướng tinh thần hiện đại" mà thế hệ trẻ gây ra và đã làm tác động đến các cơ quan của chúng ta hơn khả năng nhận biết của chúng ta hiện nay. Dù thế nào nữa, chúng tôi cảm thấy như có quyền để nói rằng nhạc kiểu này không góp phần đến tình trạng phản cảm song sự thật thì trái hẳn.

p. 293 - [The] program, You Choose It … We’ll Play It [from South German Radio / Süddeutscher Rundfunk], was introduced in 1967 and is broadcast between 11 and 12 every morning. Some time after its introduction, this request program achieved … a cumulative audience of 14 percent of those at whom the program was aimed. We are familiar with the general pattern of what happens to new programs. Usually a program reaches its audience, its circle of interested listeners, almost immediately after a relatively short initial period... Comparable polls, carried out three years later in the autumn and winter of 1971, showed that the program You Choose It … We’ll Play It had doubled its audience. The program was the same as when it was when it started, nothing had been changed, yet the audience levels rose constantly...

Chương trình, Bạn chọn... Chúng tôi sẽ phát [của Đài Phát Thanh Nam Đức] giới thiệu năm 1967 và được phát thanh từ 11 đến 12 giờ mỗi buổi sáng. Một thời gian sau, chương trình yêu cầu này được … các thính giả một tỷ lệ 14 phần trăm đối với mục tiêu của chương trình. Chúng ta quen với tổng mô hình của các chương trình. Thường lệ một chương trình đến với thính giả, một phạm vi thính giả thấy thích thú gần ngay sau một giai đoạn ngắn... Các cuộc thăm dò ý kiến tương tự được thực hiện ba năm sau, lúc mùa thu và mùa đông năm 1971, tỏ ra số thính giả nghe của chương trình Bạn chọn... Chúng tôi sẽ phát được gấp đôi. Chương trình này giữ y như thuở ban đầu, không có gì thay đổi, song số lượng thính giả luôn luôn thăng lên.

These request programs involve social activity, an appeal to the listeners. Listeners -- predominately female -- are encouraged to send in their telephone numbers... They are telephoned during the program and can express their particular choice of music... The course is thus determined by direct participation. One not only listens to the music and announcer but also to the other listeners speaking on the telephone... The program offers a surrogate that compensates for a lack of human contact.

Các chương trình yêu này đòi hỏi hoạt động xã hội, những lời kêu gọi cho thính giả. Thính giả -- chủ yếu là phái nữ -- được khuyến khích gửi các số điện thoại... Quá trình như vậy được định đoạt do sự tham gia trực tiếp. Người ta không chỉ nghe nhạc và chuyên viên giới thiệu chương trình, còn cũng nghe các thính giả khác nói trên điện thoại... Chương trình đưa ra một cái thay thế để bù cho sự thiếu tiếp xúc với con người [trong đời thường hàng ngày].

p. 297 - The relationship of the listener to the station follows a series of psycho-economic laws: The greater the quantity of hedonistic material contained within the overall program output, the more positive will be the attitude of the listener to the entire range of programs offered by the station. The the emotion is positive, there will be a growing tendency to enter into a close relationship with an object... Vice versa, if the effect of a program is overwhelmingly non-hedonistic, negative emotions are built up that block any interaction with the broadcasting system...

Mối quan hệ thính giả với đài theo một loạt quy luật tâm lý-kinh tế. Số lượng chất liệu khoái lạc được càng nhiều chứa đựng trong toàn thể các chương trình sản xuất, thì ý thích của thái độ thính giả sẽ càng tích cực với tất cả các loại chương trình của đài phát thanh phát ra. Ngược lại, nếu tác dụng của một chương trình bị ắt hẳn những cái không khoái lạc, các xúc cảm tiêu cực tích lũy sẽ ngăn chặn tất cả mỗi tác động với hệ thống truyền thông.


Tóm lại: một vài điều nổi bật trong bài nghiên cứu của ông Schmidtchen. Ban nhạc The Beatles đã tạo nên một cuộc cách mạng văn hóa. Tuổi thanh niên là thời gian mà nhân cách con người phát triển. Nhạc nhẹ có tác dụng tích cực, nhất là nếu thanh niên được tham gia trong sinh hoạt thưởng thức nhạc. Như các chương trình Làn Sóng Xanh hay Xon-FM ở Việt Nam. Thanh niên đòi hỏi nhạc với chất liệu khoái lạc -- vậy chắc gây sốc ít nhiều cho các nhà giáo dục, nhà mỹ học. Nhưng nhạc nhẹ không thể gọi là phản cảm.

24 tháng 12, 2010

Ảnh Sài Gòn xưa


Nhà mai tôn - khu ngoài ô?


Trạm xe lam?




Ngã ba, ngã tư nào?




Các đứa trẻ ở đây, bây giờ ngoài 40 tuổi; các người lính nếu còn sống đã lên tuổi cao niên



nguồn: Dan Peckham Collection, Virtual Vietnam Archive, Texas Tech University

22 tháng 12, 2010

Lửa cháy lên rồi! (Flames Have Risen!) - Song Tùng (1965)

Kính tặng Mo-ri-xơn và La-po-tơ, những người con ưu tú của nhân dân Mỹ
Respectfully dedicated to Morrison and LaPorte, outstanding children of the American people

Lửa cháy lên rồi, trước lầu Năm góc!
Flames have risen, before the Pentagon!
Lửa cháy lên rồi, đô thành Nữu-ước!
Flames have risen, New York City!
Lửa Mo-ri-xơn, lửa La-po-tơ,
Morrison's flames, LaPorte's flames
Lửa các anh, lửa rực căm thù,
The flames of you brothers, flames glow in hatred of the enemy,
Lửa tranh đấu, lửa anh hùng vĩ đại!
Flames of struggle, flames of heroic glory!

Ai muốn sống hơn anh: con thơ vợ trẻ.
Who wanted to live more than you: an infant child, a young wife
Ai yêu đời hơn anh: lứa tuổi hai mươi hai?
Who loved life more than you: in your twenties?
-- Phải!
--It must be so!
Nhưng không thể để bọn trùm đế quốc,
But we cannot allow the imperialist gangsters,
Làm ô nhục giống nòi và Tổ quốc
To disgrace the race and the Fatherland
Bắt chục vạn thanh niên đi xâm lược Việt-nam
Force tens, hundreds of thousands of youths to invade Vietnam
Phải bỏ thây nơi rừng rậm, đồi hoang!
Forced to leave their corpses in dense jungles, abandoned hills

-- Không thể được!
-- It cannot be!
Các anh quyết tự mình châm lửa đốt
You both resolved to light yourselves on fire
Khơi bùng lên: ngọn lửa đấu tranh!
Flare up: the flames of struggle!
Ngọn lửa hòa bình!
Flames of peace!
Lửa tình hữu nghị!
Flames of friendship!
Ôi vĩ đại! Những tâm hồn cao quý
Oh it's glorious! Those noble souls
Mạnh vô cùng, là nhân dân Việt-Mỹ!
Endlessly strong, the Vietnam-American people!

Sức mạnh phải đâu bọn tòa Bạch ốc!
Where is your strength, you White House jerks!
Hòa bình phải đâu lũ côn đồ Năm góc!
Where is peace, you pentagon rats!
Đứng dậy cả rồi, nhân dân Mỹ vùng lên,
They're all standing awake, the American people arise!
Tiếng thét căm hờn, run rẩy lũ Giôn-xơn!
Screams of revenge, the Johnson rats tremble

Sức mạnh phải đâu bom tràn mặt đất!
Must strength be bombs that inundate the ground!
Hòa bình phải đâu rải đầy chất độc!
Must peace be sprayed full of poison!
Vùng dậy lâu rồi, 30 triệu Việt-nam,
They've long arisen, 30 million Vietnam.
Cồn-cỏ, Chu-lai, giặc biển kinh hoàng!
Cồn Cỏ, Chu Lai, frightened pirates!

Sức mạnh phải đâu dọa bom nguyên tử!
Must strength be in threatening nuclear bombs!
Hòa bình phải đâu sợ quân quỷ dữ!
Must peace be in fearing the wicked!
Ngọn lửa các anh thúc giục đấu tranh,
Your flames hasten the struggle,
-- Đế quốc đâu có "thiện chí hòa bình"!
-- The imperialist have no "peace and goodwill"!

Giờ phút này đây,
In these moments
Viết những dòng kính phục gửi tới các anh
Writing lines of admiration to send to you both
Đất nước tôi, lửa rừng rực Bắc-Nam
My land, fires gleam North to South
Bao căm hận tràn đầy tận mắt:
How much rancor gushes into ones eyes
-- Ai ném bom phá nhà thương, trường học?
-- Who hurled the bomb destroying the hospital, the school?
-- Ai bơm hơi độc giết hại dân lành?
-- How pumped poison gas to murder the good people?
-- Ai đập tượng chúa, ai phá chùa, đình?
-- Who smashed the Lord's statue, who destroyed pagodas, temples?
-- Ai mổ bụng, moi gan bà già, em bé?
-- Who cut open the stomachs, extracted the livers of old women and children?
-- Ai???
-- Who?
-- Chúng tôi biết, không phải nhân dân Mỹ
-- We know, it's not the American people
Chính bọn trùm đế quốc: Giôn-xơn!
It's those imperialistic gangsters: Johnson!
Nhân dân chúng ta với nhau, chỉ có hữu nghị, không có căm hờn!
Our people together, have only friendship, have no grudges

Mắc-Na-ma-ra, Giôn-xơn!
McNamara, Johnson
Chúng ta căm hờn!
We have grudges!
Đất nước các anh, lửa hận đầy tràn,
In your lands, brothers, fires of hatred overflow
Đất nước chúng tôi, sông núi vùng lên
In our land, rivers and mountains rise up
Từng ngọn cỏ, cành cây cũng đứng lên giết giặc
Each blade of grass, tree branch arises to kill the enemy
Đà-nẵng, Biên-hòa, máu thù đỏ đất.
Đà Nẵng, Biên Hòa, the enemy's blood red on the earth
Sức mạnh là đây, sức mạnh ở ta
Strength is here, strength resides in us
Đế quốc như bóng xế tả.
Empire is like the day's shadows receding

Lửa ngùn ngụt Việt-nam,
Fire curls around Vietnam
Lửa rực Vê-nê-du-ê-la;
Fire glows in Venezuela
Lửa Đô-mi-ních; lửa Công-gô,
Dominican fire; Congo's fire
Lửa khắp nước Mỹ, về giữa thủ đô: Hoa-thịnh-đôn, Nữu-ước.
Fire throughout America, returns to the capital: Washington, New York
Lửa nối lửa, tràn lên bão táp
Fire followint fire, brimming over in a tempest
Quyết đốt lũ đế quốc hung tàn!
Resolve to set fire to the band of brutal imperialists
Thời đại nhân dân, lịch sử giở từng trang.
It's the people's epoch, history turns each page

Hỡi các anh,
Hail brothers,
Những người con ưu tú của nhân dân:
Outstanding children of the people
Nguyễn Văn Trỗi--La-po-tơ--Mo-ri-xơn,
Nguyễn Văn Trỗi--LaPorte--Morrison
Một ngày mai trong chiến thắng huy hoàng
A tomorrow part of a glorious victory
Các anh đứng hiên ngang trên đài kỷ niệm
You stand proudly on the memorial pedestal
Giữa Hoa-thịnh-đôn, Nữu-ước, Sài-Gòn
In Washington, New York, Sài Gòn
Tên các anh, lịch sử chép đầu trang.
Your names, history notes them at the top of its pages.

Hà-nôi, ngày 10-11-1965
Song Tùng

nguồn: Nhân dân 13 tháng 11 1965


Vụ tự thiêu của Norman Morrison có lẽ là vụ nổi tiếng nhất xây ra ở Mỹ. Chắc là do ông tự thiêu phía dưới văn phòng của Robert McNamara ở Pentagon và do ông có vợ có con. Thời chiến tranh Việt-Mỹ đã có hai vụ nữa. Trước Morrison gần 6 tháng bà Alice Herz, 82 tuổi, đã tự thiêu ở thành phố Detroit ngày 26 tháng 3 1965. Rồi một tuần sau Morrison chết thì Roger LaPorte, 22 tuổi, tự thiêu gần cơ quan Liên Hiệp Quốc ở New York ngày 9 tháng 11 1965. Cả ba người đều làm theo gương mẫu của Thích Quảng Đức.

Roger LaPorte (nguồn: thông tấn xã Associated Press, tờ báo New York Times 11 tháng 11 1965)

Roger LaPorte phát biểu rằng đã làm vụ này vì chống chiến tran, "tất cả các chiến tranh." Anh ấy tham gia Catholic Workers Movement (Phong trào Người lao động Công giáo). "He was always pleasant and thoughtful, but he just didn't think in the same terms that other people did. He seemed to attack problems from a different perspective" (Anh luôn luôn dễ thương và hay ngẫm nghĩ, nhưng anh không nghĩ với những quan điểm giống các người khác. Anh hình như bắt tay vào các việc với một cách nhìn khác). Các bạn cũng nhắc rằng các câu chuyện kết thúc với anh ấy nói đến Chúa. Cùng thời các bạn coi anh như một thanh niên bình thường: "He drank, he smoked, he dated, he enjoyed movies" (Anh hay uống bia/rượu, hút thuốc lá, hẹn hò với bạn gái, anh thích coi phim).

Hình như Song Tùng không phải là nhà thơ tên tuổi? Hay là tên bút của ai đó? Bài thơ này ra đời rất nhanh sau khi LaPorte chết. Giống các bài ca, bài thơ về Norman Morrison, nhà thơ cứ tưởng rằng Roger LaPorte tự thiêu vì "căm thù." Gọi là "ngọn lửa hòa bình" thì đúng. Cuối bài thơ bộ ba Morrison, LaPorte và Nguyễn Văn Trỗi song hành lên trang sử. Nhưng hình như LaPorte bị lãng quên - có đường LaPorte nào ở Việt Nam? Cũng có vẻ như ý thức về thời cuộc của LaPorte không cao bằng Morrison.

Chỉ có một người Mỹ tự thiêu vì các chiến tranh Trung Đông là Malachi Ritscher (ngày 3 tháng 11 2006). Một điều tôi mới biết là đã có hơn một chục người Đông Âu tự thiêu vì chính sách của Liên Xô từ năm 1968 đến 1989 (Xem trang này để xem danh sách).

"Các anh đứng hiên ngang trên đài kỷ niệm."

20 tháng 12, 2010

... la cathedrale d'Hanoï, vue de la rue des Missions...

En haut: la cathedrale d'Hanoï, vue de la rue des Missions qui à souffert, elle aussi.
[Ở trên: Nhà thờ Hà Nội, nhìn từ phố Nhà Chung mà cũng phải chịu đựng nữa]


En bas: ces inscriptions murales invitent les Vietnamiens à "se sacrificer pour le pays des ancêtres" et à "mourir plutôt que de soumettre"
[Ở dưới: lời ghi trên tường này thôi thúc dân Việt "hy sinh cho tổ quốc" và "thà chết hơn chịu hàng"]


Hy sinh cho tổ quốc / Sống chết với Thủ Đô / Thà chết không chịu hàng giặc Pháp

nguồn: Lucien Bodard, Le Viet-Minh au Tonkin, France-Illustration (17 mai 1947), 489-492.

19 tháng 12, 2010

... le désolant spectacle qu'offre la capitale du Tonkin

A gauche: voila le désolant spectacle qu'offre la capitale du Tonkin.
Bên trái: đây là cảnh đau khổ mà thủ đô Đông Kinh bày ra.


A Hanoï, tandis patrouilles et blindés sillonent, vigilants, la rue Paul-Bert (en haut), une journaliste et un soldat en armes (en bas), parcourent le théâtre des dernier combats.
Ở Hà Nội, lúc tuần tra và xe thiết giáp đi ngang dọc, cảnh giác, phố Tràng Tiền (ở trên), một nhà báo và người lính cầm súng (ở dưới), đi khắp chiến trường của trận cuối.

nguồn: Lucien Bodard, Le Viet-Minh au Tonkin, France-Illustration (17 mai 1947), 489-492.

15 tháng 12, 2010

Porteuses d'eau dans le delta du Tonkin - M. J. Inguimberty

Porteuses d'eau dans le delta du Tonkin - Các cô gánh nước vùng châu thổ Đông Kinh
Joseph Inguimberty (1896-1971)

nguồn: Pierre Gourou, "Les beaux-arts en Indochine," France Illustratation (Numéro spécial sur l'Indochine [tháng 12 1948]). [Mỹ thuật ở Đông Dương].


Inguimberty là giáo viên chính ở Trường Mỹ Thuật Đông Dương. Vậy nhiều họa sĩ "tiền chiến" cũng chịu ảnh hưởng của ông. Phong cách của ông là chủ nghĩa hiện thực. Ông vẽ cảnh nông thôn ở trên cũng đúng với sự thật.

Chỉ có việc là các cô gánh nước không có mặt. Không biết hai cô vui cười, hay âu lo. Có lẽ hai cô chỉ thuộc phong cảnh đời đời của miền Tonkin, chỉ làm trang trí cho cảnh vật này.

Cũng có nhiều tranh khác của Imguiberty trên mạng.

12 tháng 12, 2010

Đoạn đường Đông Dương

nguồn: "Étapes indochinoises 1940-1949," France illustration (Numéro spécial sur L'Indochine [1948]). [Đoạn đường Đong Dương 1940-1949]

Tôi không biết đây là đường nào đến đâu. Nhưng làm sao tiếp tế và tiếp viện trên đường này mà không bị phục kích?

10 tháng 12, 2010

Nhạc Beatles đến Việt Nam như thế nào? - Jason Gibbs (2010)

Nguồn: Thể thao và văn hóa (7 tháng 12 2010).

(TT&VH Cuối tuần) - Năm 1964 nhạc của The Beatles bùng nổ khắp thế giới và tạo nên một cuộc cách mạng trong văn hóa phổ thông của giới trẻ. Việt Nam không nằm ngoài vòng xoáy ấy. Người Việt mê và nghe The Beatles từ khi nhóm tứ quái ấy vừa mới trở thành một hiện tượng quốc tế, có nghĩa cũng đã ngót nghét nửa thế kỷ.

Các fan được biết đến The Beatles qua các đĩa nhựa 45 vòng, từ chương trình nhạc nước ngoài của Đài Quân đội Sài Gòn hay các tạp chí âm nhạc thời trang như Salut les compains (Chào các bạn). Nhiều nhạc sĩ trẻ cũng được học nhạc The Beatles qua các ban nhạc Phi Luật Tân như The Six Uglies (Sáu đứa xấu)…

Từ Sài Gòn

Ở Sài Gòn lúc bấy giờ The Beatles thuộc loại kích động nhạc mà từ đầu thập niên 1960 được nghe khá nhiều tại các đại nhạc hội. Nhiều nhóm nhạc vốn trước đó rất thích theo khuôn khổ của The Shadows hay The Ventures (guitar solo, accord, bass và trống) thấy nhạc Beatles ra đời lập tức theo ngay. Họ cũng rất ưa thích thời trang của The Beatles. Nhạc sĩ Tùng Giang kể rằng mọi người cũng ăn mặc giống như The Beatles. Các nam học sinh tuổi choai choai thích để tóc dài (một cách phản đối thế hệ trước của tuổi teen 5x). Nói chung, ảnh hưởng văn hóa của The Beatles trong giới teen thượng lưu ở Sài Gòn đã rất rộng lớn.

Nhạc The Beatles đến với Việt Nam bằng những cách bất đắc dĩ. Một người lính Mỹ kể rằng các bạn của ông thích nghe chương trình tiếng Anh của đài Hà Nội với xướng ngôn viên mà họ nôm na gọi là “Hanoi Hannah”. Họ thấy rất thú vị lúc bà cho phát một ca khúc nổi tiếng của The Beatles là A Hard Day’s Night. Một lính Mỹ khác ở Tây Nguyên cũng nhắc rằng người bản xứ rất thích nghe đài Mỹ và thường hát Hey Jude với nhau.


Một chương trình Hoài niệm cùng John của RFC được tổ chức tại NVH Thanh niên TP.HCM ngày 8/12/2000

Đến Hà Nội - Hải Phòng

Có lẽ điều lạ nhất là cách phổ biến The Beatles ở ngoài Bắc thời chiến tranh. Thuở ấy nhạc The Beatles được xếp vào loại màu vàng (vì chất “giật gân” hay “đồi trụy”) và bị gọi là “nhạc xập xình”. Về nhạc pop rock nói chung và nhạc The Beatles nói riêng chủ yếu lan truyền trong các thanh niên Việt kiều Tân Đảo mới về miền Bắc đầu thập niên 1960 (Tân Đảo là hòn đảo Nouvelle Calédonie, bây giờ là lãnh thổ thuộc Pháp. Trước năm 1945 nhiều người Việt làm phu mỏ thiếc ở đây). Thanh niên Tân Đảo là những người ít ỏi được mang về các thiết bị như đàn guitar điện, trống và các đĩa hát. Họ cũng tập trung chơi nhạc với nhau để đỡ buồn. Nhiều người cho rằng họ chơi nhạc The Beatles khá nhất. Dù biết chơi nhạc loại này là trái xu hướng xã hội lúc bấy giờ nhưng vẫn có người trong số này cho rằng “âm nhạc không có biên giới”.

Thanh niên Hoa kiều cũng rất ái mộ nhạc The Beatles. Ở ngoài Bắc, đồng bào Hoa kiều do quan hệ ngoại giao thân với Trung Quốc lúc bấy giờ nên được ưu đãi ít nhiều, nói chung họ sống với điều kiện khá giả hơn vì gia đình được phép buôn bán. Họ cũng được nghe nhạc Beatles thoải mái qua đài Hong Kong. Ở Hà Nội thời điểm ấy từng có một nhóm bạn 3 người gốc Hoa đã thành lập một nhóm gọi là Bít-Tầu phục vụ các đám cưới trong cộng đồng. Họ chơi các bài như Here Comes the Sun, Something, Let it Be, Yesterday…

Trong những người ngoài Bắc mê nhạc The Beatles thời chiến tranh cũng có “thành phần không sản xuất”. Vì lý lịch (bố làm việc cho chính phủ Bảo Đại trước 1954 chẳng hạn) họ không được nhiều điều kiện đi học, khó xin được công việc tốt và vì vậy luồng nhạc trẻ quốc tế có sức hấp dẫn đặc biệt vì họ cảm thấy được an ủi phần nào.


Vé chợ đen bán khá chạy trước một chương trình tưởng niệm ngày mất của John Lennon tại Hà Nội vào năm 1993

Niềm đam mê nghe và chơi nhạc The Beatles được phát triển ở Hải Phòng hơn là Hà Nội. Hải Phòng là đất cảng và đa số là công nhân sản xuất. Đáng chú ý là thanh niên “lệch lạc” vùng này thỉnh thoảng chơi nhạc xập xình thì không bị coi như vấn đề lớn. Khác với các vùng khác thời chiến, Hải Phòng thường xuyên có nhu cầu tổ chức đám cưới phải có ban nhạc hát sống. Nhạc tiền chiến và nhạc vàng Sài Gòn bị cấm triệt để và vì thế các ban nhạc phục vụ đám cưới cho dân Hải Phòng chỉ chơi nhạc ngoại quốc. Và tất nhiên trong số đó có rất nhiều bài vui tươi của The Beatles. Vì sống ở thành phố cảng, nhiều nhạc công người Hải Phòng cũng có điều kiện tiếp xúc với người nước ngoài. Ở Câu lạc bộ Thủy thủ họ gặp các thủy thủ trên tàu Philippines, Ba Lan, Pháp và Hong Kong. Những thủy thủ này đã rất khuyến khích và cung cấp đàn, tư liệu âm nhạc giúp các nhạc công Hải Phòng tìm hiểu nhiều hơn về nhạc quốc tế.

Người Hà Nội mê nhạc The Beatles kín đáo hơn dân Hải Phòng. Có những trường hợp một số ít bạn bè tụ tập nghe đĩa và nghe đài, nhất là Đài Tiếng nói Hoa Kỳ. Có một số chơi nhạc The Beatles và tập thường xuyên tuy nhiên thường làm nhiều cách để không bị để ý. Cũng có lần mọi người tụ họp chơi nhạc thì công an đến kiểm tra. Thường thì họ báo cáo với công an rằng họ không chơi nhạc Việt Nam mà là nhạc của… Cuba.

Nhạc The Beatles là một điều ám ảnh cho những thanh niên này - họ đam mê The Beatles dữ dội và suốt ngày tập nhạc với mục đích là chơi cho y hệt tứ quái Liverpool. Ở Hà Nội các nhạc công không được phép chơi nhạc đám cưới vì thế các ban nhạc cố gắng được chơi nhạc The Beatles ở Câu lạc bộ Quốc Tế để phục vụ khách nước ngoài. Các nhạc công này phải chịu khó kiếm đàn, họ phải đẽo đàn guitar điện, tìm ampli và thuê trống từ Đoàn Xiếc Hà Nội.

Những người nghe nhạc The Beatles cảm thấy như họ văn minh theo tiêu chuẩn quốc tế. Có một số thanh niên cũng để tóc dài và mặc quần ống loe như ở miền Nam.

Trong hồi ký của mình nhạc sĩ Tô Hải có nhắc đến các cửa hàng Xunhasaba bán các đĩa nhựa quốc tế như của The Beatles được xuất bản ở Đông Âu. Chắc đó là từ thập niên 1970, thời mà Liên Xô xuất bản các đĩa lậu có nhạc The Beatles. Đối với các tay nghe nhạc dữ dằn thì đĩa The Beatles phải có logo Apple (Quả Táo) mới là hàng xịn. Họ kiếm đồ quý hiếm này qua bạn bè có quan hệ ngoại giao (làm ở đại sứ quán Thụy Điển chẳng hạn) hay quen người đi công tác nước ngoài.

Sau khi Việt Nam được thống nhất năm 1975 thì những người mê nhạc The Beatles của hai miền được gặp nhau. Nhạc thời kỳ này được gọi chung dưới một cái tên: Nhạc nhẹ. Một số nhạc công như Nguyễn Mạnh Hùng (Hùng Húp), Nguyễn Văn Hào (Hào trống) đã chơi nhạc này cho các đám cưới cùng các nhạc công trong ban nhạc của Đoàn Ca múa nhạc Thăng Long.

Các tờ báo ở Việt Nam không đăng tin John Lennon bị ám sát ngày 8/12/1980. Nhưng ở thập niên 1980 thì tư liệu về The Beatles đã có thể tìm kiếm ở Việt Nam khá dễ dàng. Đối với các tay muốn học nhạc rock từ Bắc chí Nam thì học chơi nhạc của The Beatles như là một nghi lễ bắt buộc. Các ban nhạc mới lập phải tập các bài hát này trước khi dám chơi trước công chúng hay khi họ chơi những ca khúc tự sáng tác.

The Beatles cũng là một cảm hứng lớn cho các nhạc sĩ muốn soạn nhạc theo phong cách pop rock. Các nhạc sĩ như Lê Hựu Hà, Nguyễn Trung Cang, Đức Huy hay Tùng Giang đã chịu ảnh hưởng khá nhiều của nhóm này.

The Beatles mang tính ảnh hưởng toàn cầu, họ làm nên cuộc cách mạng văn hóa. Cuộc cách mạng văn hóa ấy đã đến, thay đổi và ở lại cho dù gần nửa thế kỷ đã trôi qua.

7 tháng 12, 2010

#9 Dream (Giấc mơ số 9) - John Lennon (1974)

So long ago
Đã bao lâu rồi
Was it in a dream, was it just a dream?
Có phải trong giấc mơ, có phải chỉ một giấc mơ?
I know, yes I know
Ta biết, vâng ta biết
Seemed so very real, it seemed so real to me
Có vẻ như thực tế quá, có vẻ như thực tế quá với ta

Took a walk down the street
Dạo xuồng đường phố
Thru the heat whispered trees
Qua cây thầm nồng
I thought I could hear
Ta tưởng ta được nghe

Hear
Nghe
Somebody call out my name [John] as it started to rain
Một người kêu ra tên ta lúc trời bắt đầu mưa
Two spirits dancing so strange
Hai tâm linh múa rất lạ

Ah! bö wakawa poussé, poussé
À! họ sống [tiếng Swahili] đẩy đi, đẩy đi [tiếng Pháp]

Dream, dream away
Cứ mơ, mơ đi
Magic in the air, was magic in the air?
Ma lực trong không gian, có phải là ma lực trong không gian?
I believe, yes I believe
Ta tin, vâng ta tin
More I cannot say, what more can I say?
Thêm nữa ta chẳng được nói, ta nói được thêm nữa chẳng?

On a river of sound
Trên giòng sông âm thanh
Thru the mirror go round, round
Vào gương quay tròn, tròn
I thought I could feel
Ta tưởng ta có cảm giác

Feel
Cảm giác
Music touching my soul, something warm, sudden cold
Âm nhạc chạm đến tâm hồn ta, cái gì nóng, đột ngột lạnh
The spirit dance was unfolding
Múa tâm linh đã mở ra

Ah! bö wakawa poussé, poussé
À! họ sống đẩy đi, đẩy đi [tiếng Pháp]


Ngày mai là kỷ niệm 40 năm John Lennon bị ám sát. Nhạc Beatles không phải là nhạc của tuổi trẻ tôi - lứa tuổi tôi đến một vài năm sau. Dù đã nghe và thuộc nhạc Beatles rất nhiều, tôi thấy nhạc của từng thành viên Beatles solo trong thập niên 1970 mới gần hơn đời tôi. Tôi nghĩ rằng có rất nhiều người giống tôi là thuộc hết các bài ca tuổi "choai choai" của họ dù nhạc ấy hay hay dở bao nhiêu.

#9 Dream là một bài ca thật hay và tôi đã thấy mê từ lần đầu tiên nghe ra (chắc là cuối năm 1974). Mới đây tôi được xem video ở dưới:



Theo người đăng lên youtube thì đây là video quảng cáo chính thức. Hình như hai người đóng phim là John Lennon và May Pang (bạn gái của Lennon, cũng kêu ra "John" trong ca khúc). Video này rất hợp với bản chất mơ mộng của bài ca này. "#9 Dream" vừa lãng mạn vừa khiêu dâm là cái giấc mơ hai người thành một lúc tuyệt đích (cực khoái).

Bài ca này về các mặt âm thanh, nội dung và cấu trúc không theo khuôn khổ của một bài ca phổ thống bình thường. Dù thế "#9 Dream" đã được lên vị trí số 9 (con số may mắn của Lennon) theo danh sách các bài ca ưa thích nhất của tạp chí Billboard đầu năm 1975.

Hình như Lennon có cảm hứng sáng tác bài hát này thời đang sản xuất một album của Harry Nillson. Lúc phối khí cho dàn dây kéo cho bài ca "Many Rivers to Cross" (Còn nhiều dòng sông phải vượt qua), Lennon thấy thích lắm. Ông lấy nét nhạc này để cải biến và cho một bài ca riêng là "#9 Dream".



"Many Rivers to Cross" là một bài ca của Jimmy Cliff, một ca sĩ Jamaica.



Về cấu trúc thì "#9 Dream" là through composed (sáng tác thường xuyên) - nghĩa là không có phiên khúc, điệp khúc. Nói đi từ một đoạn sang một đoạn khác.

A - So long ago...
B - Took a walk...
C - Hear, somebody call...
D - Ah! bö wakawa
E - đoàn cuối không lời với đàn harp
Rồi tất cả lặp lại với fade trên đoàn B

Cách hòa âm đoạn A rất thú vị. Đại khái là chuỗi các hợp âm C-F-G nhưng Lennon chọn một cách loanh quanh xen kẽ những hợp âm E nữa với kết quả là chuỗi C-E 7 thứ-F-E trưởng-F-D trưởng-F-G.

Nét giai điệu đầu - "So long ago" - là C-B-C-G. Nốt G ở đây không thuộc hợp âm F ở dưới, nhưng lúc F được giải quyết thành E thì Lennon chọn hợp âm E trưởng với nốt G# cũng ngược với nốt G. Đó là một cách tạo ra một không khí mơ mộng trong âm nhạc.

Rồi lúc đến hợp âm G trưởng thì G thành một ground (nốt căn bản không thay đổi) cho đoạn B. Đoạn C thì có thêm một nốt mới là F# trong giai điệu (hear). Có hai hợp âm xen kẽ nhau là E thứ và A thứ lúc mà giai điệu treo lên. Rồi lúc đoạn E đến không khí âm thanh thay đổi hẳn. Lý do chính là Lennon đột ngột thay đổi từ nhóm nốt E thứ (E-F#-G-A-B-C-D) đến G thứ (G-A-Bb-C-D-E-F). Trong đoạn E thì Lennon lại chọn nhóm nốt G trưởng. Chuỗi nốt bass ở đây cũng rất đặc biệt - có hai nhóm bốn nốt nguyên âm là F#-E-D-C rồi B-A-G-F. Cái nốt F cuối thì cũng đi cùng một nốt G ở trên (như ở đoạn A).

5 tháng 12, 2010

Pour qui? mourir

Entre Yen-Ha et Chi-Phong une haute falaise a été utilisée par les communistes comme panneau publicitaire a l'usage de la propagande
Ở giữa Yen-Ha và Chi-Phong một vách đá cao được Cộng Sản sử dụng như một biển quảng cáo để làm tuyên truyền

nguồn: "Role essentiel de la marine dans les opérations dites combinées," France illustration (Numéro spécial sur L'Indochine [1948]). [Vai trò cốt yếu của hải quân trong tác chiến được gọi là phối hợp]

Pour qui? mourir - Nhân danh ai? chết

Nhân danh một ông chủ mập ngồi nghỉ hút thuốc xì gà? Trong gốc dưới phía phải biển - nó làm gì? Sờ một phụ nữ?

Quân đội Pháp phát hiện biển tuyên truyền trong cái gọi là Operation Pégase, tháng 12 1948 ở khu Phủ Lý. Hình như họ không sợ tác dụng của biển tuyên truyền này vì họ cứ cho lên tạp chí ở mẫu quốc.

3 tháng 12, 2010

Thời gian trắng (The White Time) - Xuân Quỳnh (1988)

Georgia O’Keefe, Abstraction White Rose, 1927
[Trừu tượng hoa hồng trắng]

Cửa bệnh viện, ngoài kia là quá khứ
The hospital door, out there's the past
Những vui buồn khao khát đã từng qua
Yearnings, happy and sad, pass in turn
Nào chỉ đâu những chuyện ngày thơ
Was it only those youthful stories
Con đường gạch ao bèo hoa tím ngát
A brick lane, duckweed without end in purple bloom upon the pond
Những ô ăn quan, que chuyền, bài hát
Mandarin squares, pick-up sticks, songs
Những mùa hè chân đất, tóc râu ngô
Barefoot summers, corn silk
Quá khứ em không chỉ ngày xưa
My past wasn't just long ago
Mà ngay cả hôm nay là quá khứ
Even this day, today, is the past
Quá khứ của em ngoài cánh cửa
My past lies outside the door
Gương mặt anh, gương mặt các con yêu...
Your face's expression, the expressions on our beloved children's faces...

Em ở đây không sớm không chiều
I'm here, not morning nor evening
Thời gian trắng, không gian toàn màu trắng
It's white time, an entirely white space
Trái tim buồn sau lần áo mỏng
A saddened heart after the time a thin blouse
Từng đập vì anh vì những trang thơ
Pounded for you, for pages of verse
Trái tim nay mỗi phút mỗi giờ
This heart, every minute, every hour
Chỉ có đập cho em mình em đau đớn
Only pounding for me when I'm hurt
Trái tim này chẳng còn có ích
This heart no longer has a use
Cho anh yêu, cho công việc, bạn bè
For you my love, for my work, my friends
Khi cuộc đời trôi chảy ngoài kia
As life streams past out there
Thời gian trắng vẫn ngừng trong bệnh viện
The white time still pauses inside the hospital
Chăn màn trắng, nỗi lo và cái chết
A white thin mattress, worries and death
Ngày với đêm có phân biệt gì đâu
Day and night, there's no telling them apart
Gương mặt người nhợt nhạt như nhau
Facial expressions, pale, all alike
Và quần áo một màu xanh ố cũ
Clothes, a stained green of old
Người ta khuyên “lúc này đừng suy nghĩ
People warn me "don't think right now
Mà cũng đừng xúc động, lo âu”
And also don't be emotional, worried"
Phía trước, phía sau, dưới đất, trên đầu
Before me, behind, beneath the ground, above my head
Dường trong suốt một màu vô tận trắng
It's like a hue of endless white throughout

Muốn gánh đỡ cho em phần mệt nhọc
You took the load for me, a share of fatigue
Tới thăm em, rồi anh lại ra đi
Visited, then you left
Đôi mắt lo âu, lời âu yếm xẻ chia
A pair of worried eyes, loving words of sympathy
Lúc anh đến, anh đi thành quá khứ
When you came, you left becoming the past
Anh thuộc về những người ngoài cánh cửa
You belong to those people outside the door
Của con đường, trang viết, câu thơ
Of the roads, written pages, lines of verse
Mùa vải thiều lại tới mùa dưa
Succulent lychee season returns again to melon season
Mùa hoa phượng chắc rơi hồng mái phố
Poinciana season has probably tumbled on to the rooftops
Đường cuốn bụi bờ đê tràn ngập gió
The road whirls with dust, the dike's edge overrun with wind
Những phố phường lầm lụi với lo toan.
The neighborhood's gloomy with intentions.

Dù cùng một thời gian, cùng một không gian
Though sharing a time along with a space
Ngoài cánh cửa với em là quá khứ
Outside the door with me is the past
Còn hiện tại của em là nỗi nhớ
And my present is a longing
Thời gian ơi sao không đổi sắc màu.
Oh time, why can't you change colors?

6/1988


Có những văn bản của bài thơ này khác nhau ít nhiều trên mạng, vậy cũng khó biết thế nào là bản đúng. (Tôi chọn bản này từ chỗ này). Xuân Quỳnh viết cũng ngay thẳng nhưng tôi vẫn thấy bài thơ này khá khó dịch. Trong "Thời gian trắng" thi sĩ viết về những cảm xúc rất mạnh. Trong vần thơ Việt tôi chỉ đọc đến bài thơ của Hàn Mặc Tử mà thấy viết mạnh hơn. Nhưng Hàn Mặc Tử viết thơ đầy cảm xúc mạnh thường xuyên. Ở đây Xuân Quỳnh biểu lộ một cảm xúc cụ thể và riêng biệt.

Ở đằng cùng quang phổ các loài màu là đen và trắng. Đen cũng là tối -- lắm lần người thấy màu đen tối đáng sợ. Song màu đen cũng là một chiếc chăn để bao vây mình. Màu trắng thì được coi là sạch sẽ, trong sáng. Song màu trắng cũng làm cho mình cảm thấy ngơ ngác nữa. Đọc bài thơ này tôi cũng nghĩ đến bài thơ "Nhớ người trong nắng" của Nguyễn Bính - về nắng trưa hè.

Xuân Quỳnh không phải một người lẻ loi - có chồng, có con. Chồng và con cũng là một niềm an ủi lớn. Nhưng cảm xúc mạnh này như thế xóa các người thân. Và xây lên một tường chia ra quá khứ với hiện nay. Quá khứ là những kỷ niệm đẹp, là những người thân, là những việc bình thường. Hiện nay là các cảm xúc mạnh khó ngăn cản, và không nên ngăn cản. Cái đặc biệt là Xuân Quỳnh sẵn sàng trong những phút giờ này giữ lại màu trắng này để tôn trọng các xúc cảm mạnh này.

1 tháng 12, 2010

Prêts pour le défilé, dans les rues d'Hanoï ...


Prêts pour le défilé, dans les rues d'Hanoï, avant les événements du 19 décembre 1946: un groupe de volontaires extrémistes Tu-Ve, où les femmes, rigides sous les armes, ont un air particulièrement déterminé et fanatique.
[Sắp sửa diễn hành, trên phố Hà Nội, trước các biến cố của hôm 19 tháng 12 1946: một nhóm tự nguyện cực đoan Tự Vệ, mà các phụ nữ với các tay cứng có vẻ quyết tâm và cuồng nhiệt đặc biệt]

nguồn: Lucien Bodard, "L' échec du Viet-Minh," [Sự thất bại của Việt Minh] France Illustration (17 mai 1947), 505.

Ảnh này xuất hiện trong một tạp chí ảnh phóng sự có chất biến cố thế giới và giải trí. Tất nhiên các bài viết cũng có vai trò tuyên truyền cho chính phủ Pháp. Các độc giả ở quán café Paris năm 1947 nghĩ gì lúc xem các cô "cực đoan" và "cuồng nhiệt" cầm súng?

Có vẻ như không cô nào có súng thật. Điều quan trọng là họ tham gia một cuộc nghi lễ chứng minh lòng quyết tâm và đoàn kết những đứng ngoài mà xem.

30 tháng 11, 2010

Vua với cây đàn

Le passe-temps favori de l'empereur durant son séjour en France
Trò tiêu khiển thích thú nhất của Hoàng Đế trong sự lưu lại ở Pháp


nguồn: André Sumer, "L'évolution politique de l'Indochine," France illustration (Numéro spécial sur L'Indochine [1948]). [Sức tiến triển chính trị ở Đông Pháp]

Công dân Vĩnh Thụy thích tập đàn piano.

S. M. Bao Dai au volant d'une voiture rapide a Montlhéry
Bệ hạ Bảo Đải bay qua trong một xe cao tốc ở Montlhéry


nguồn: S. E. Pham Van Binh, "S. M. Bao Dai: Empereur democrate et sportif accompli," France illustration (Numéro spécial sur L'Indochine [1948]) [Bệ hạ Bảo Đại: Hoàng đế dân chủ và nhà thể thao thành công]

Phải chăng bệ hạ thích chạy xe nhiều hơn?

23 tháng 11, 2010

How The Beatles Rocked the Kremlin (Nhóm Beatles làm điện Crem-Lanh được rock) (2009)

Nhân dịp sinh nhật 70 của John Lennon (và kỷ niệm 30 năm của việc ông bị ám sát), vợ chồng tôi được xem phim tài liệu How The Beatles Rocked the Kremlin trên kênh 9.

Quan điểm của Leslie Woodhead (người sản xuất phim này) là nhóm The Beatles đã làm cho nước Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản tan rã. Tôi nghĩ nói thế thì quá đáng - những yếu tố quân sự (Afghanistan) và kinh tế (giá xăng hạ xuống) rất là quan trọng.

Nhưng Woodhead nhận xét đúng rằng The Beatles là mũi nhọn của một cuộc cách mạng quốc tế. The Beatles làm cho thế hệ trẻ (thế hệ 5x) được phản đối thế hệ trước và các khuôn khổ xã hội sẵn có một cách vui tươi, hồn nhiên và có văn hóa.

Chính phủ Liên Xô đã muốn giữ độc quyền về mọi mặt thông tin, văn hóa và tư tưởng. Nhưng nhạc của The Beatles đã có một sức hấp dẫn họ không đủ sức để ngăn cản. Trong một xã hội chính thống các fan của The Beatles tìm được một nơi trú ẩn cho niềm ước tự do cá nhân. Họ thành những lính không súng mà không chấp nhận đường lối của chính phủ Liên Xô. Nếu quan niệm của Woodhead đúng thì đoan lính này đã thành quá đông đến mực cơ chế chính phủ cộng sản không tồn tại được.

Mời các bạn coi đây - xem quan niệm ông Woodhead đúng hay không?

Video này không được embed.

Phần 1
Phần 2
Phần 3
Phần 4
Phần 5

19 tháng 11, 2010

Lê Thị Hồng Gấm, sống anh dũng, chết vẻ vàng, (Lê Thị Hồng Gấm, Lived Heroically, Died Gloriously)

tranh: Nguyễn Bích. Nhân dân (16 tháng 10 1971).

1 - Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo yêu nước, Lê Thị Hồng Gấm tham gia công tác cách mạng từ khi còn nhỏ tuổi. Ba má tích cực đấu tranh chống Mỹ-ngụy, Hồng Gấm cũng dẫn đường cán bộ đi công tác.

1 - Born and growing up in a poor, patriotic peasant family, Lê Thị Hồng Gấm participated in revolutionary assignments since she was little. Her mom and dad zealously fighting against the Americans and their puppets, Hồng Gấm also led the way for cadres to carry out their assignments.

2 - Hàng trăm chuyến công tác giao liên đầy gian khổ, thử thách, hàng chục lần gặp địch phục kích hoặc bị chúng bắt giữ, Hồng Gấm dũng cảm, mưu trí chiến thắng quân thù và hoàn thành nhiệm vụ.

2 - Hundreds of liaison trips full of hardships and trials, hundreds of times meeting the enemy in ambush or being detained, Hồng Gấm heroically and resourcefully defeated the enemy and completed her duties.

3 - Hồng Gấm đi về các xóm ấp gặp khó khăn nhất, đến những "ấp chiến lược" tuyên truyền, vận động và tổ chức đồng bào tham gia các lực lượng đấu tranh chính trị và đội du kích, xây dựng xã, ấp chiến đấu.

Hồng Gấm went back to the hamlets facing the most difficulties, coming to "strategic hamlets" to propagandize, campaign and organize her compatriots to participate in the forces for political struggle and partisan squads, to build combat hamlets.

4 - Vừa chỉ huy, Hồng Gấm vừa dẫn đầu các mũi tiến công các đồn bốt, "ấp chiến lược", diệt bọn ác ôn, phá ách kìm kẹp, giúp sức đồng bào nổi dậy giành lại quyền làm chủ.

As she commanded, Hồng Gấm led the attack on each post and "stratetic hamlet," wiping out the thugs, breaking the yoke of the lock up, helping her compatriot's strength in rising up to retake their authority as masters.

5 - Trong một chuyến đi công tác cùng hai bạn gái, Hồng Gái gặp hai máy bay lên thẳng của địch tới đổ quân vay bắt. Chị chỉ đường cho hai bạn tránh thoát. Một mình Hồng Gấm dừng lại, giương súng bắn rơi một máy bay lên thẳng, diệt bọn Mỹ-ngụy trên máy bay.

5 - During a trip on a mission with two girlfriends, Hồng Gấm encountered enemy two helicopters coming to spill out troops to surround and capture them. She showed a way for her two friends to escape. Alone, Hồng Gấm stopped, lifted her rifle and shot down a helicopter, wiping out the Americans and their lackeys inside.


6 - Bọn lính ngụy trên chiếc máy bay lên thẳng còn lại đổ xuống định vây bắt Hồng Gấm. Chị bắn nhiều tên ngã gục, ghim đầu những tên khác xuống. Khi bắn xong viên đạn cuối cùng cũng là lúc Hồng Gấm bị mấy vết thương nặng. Biết mình không thể sống được, Hồng Gấm đập gãy nát khẩu súng, không để lọt vào tay giặc, Hồng Gấm hy sinh lúc 19 tuổi.

6 - The puppet troops in the remaining helicopter poured out planning a round-up to capture Hồng Gấm. She shot many gangsters down, pulled down other gangsters. Once she shot her last bullet was the moment she became seriously wounded. Knowing that she couldn't live, smashing her gun so it wouldn't fall into the hands of the enemy, Hồng Gấm sacrificed her life at age 19.

17 tháng 11, 2010

Revolution 1 (Cách mạng 1) - The Beatles / John Lennon (1968)

You say you want a revolution
Bạn nói muốn làm cách mạng hả
Well, you know
Này, bạn biết
We all want to change the world
Mọi chúng ta đều muốn thay thế giới
You tell me that it's evolution
Bạn nói rằng đây là sự tiến triển
Well, you know
Này, bạn biết
We all want to change the world
Mọi chúng ta đều muốn thay thế giới

But when you talk about destruction
Nhưng khi bạn nói đến sự phá hủy
Don't you know that you can count me out / in
Bạn phải biết rằng có thể đếm tôi ở ngoài / trong

Don't you know it's going to be alright?
Bạn biết không mọi sự sẽ ổn?

You say you got a real solution
Bạn nói rằng có giải pháp thật hả
Well, you know
Này, bạn biết
We'd all love to see the plan
Mọi chúng ta đều ước nhìn thấy kế hoạch
You ask me for a contribution
Bạn xin tôi đóng góp
Well, you know
Này, bạn biết
We're doing what we can
Mọi chúng đang làm theo khả năng

But if you want money for people with minds that hate
Nhưng nếu bạn muốn tiền cho loài người có tâm căm hờn
All I can tell you is brother, you have to wait
Tôi chỉ nói được, anh ơi, hãy phải đợi chờ

Don't you know it's going to be alright?
Bạn biết không mọi sự sẽ ổn?

You say you'll change the constitution
Bạn nói sẽ đổi hiện pháp hả
Well, you know
Này, bạn biết
We don't love to change our head
Mọi chúng ta không ưa đổi đầu não mình
You tell me it's the institution
Bạn nói là tại cơ chế
Well, you know
Này, bạn biết
You better free your mind instead
Bạn hãy giải phóng tâm trí bạn thay thế

But if you go carrying pictures of Chairman Mao
Nhưng nếu bạn cứ mang áp phích ảnh Mao Chủ Tịch
You ain't gonna make it with anyone anyhow
Bạn sẽ chả hòa hợp với bất cứ ai thế nào nữa

Don't you know it's going to be alright?
Bạn biết không mọi sự sẽ ổn?


Năm 1968 thời bài ca này ra đời không biết bài ca này được phổ biến ở Việt Nam. Đây nhất định là một ca khúc chính trị - nhưng đây là chính trị cá nhân. Bài này không được rõ lắm về lập trường. Người hát (Lennon) muốn thay thế giới nhưng lúc tham gia sự phá hủy của cuộc cách mạng thì không biết là "in" hay "out".

Cuộc cách mạng của Lennon không phải một cách mạng dân tộc, khoa học, và nhất định không phải đại chúng nữa. Lennon thấy không cần đổi hiện pháp và các cơ chế - việc quan trọng là phải đổi chính mình - đổi tâm trí mình. Nhưng không theo một khuôn khổ có sẵn. Mọi người nên "giải phóng tâm trí" của mình. Và Lennon cũng không chấp nhận sự căm ghét - tiêu biểu là Mao Chủ Tịch.

Nhạc này theo kiểu blues r&b nặng. Đặc điểm của nhóm The Beatles là những năm ban đầu họ chơi và thuộc rất nhiều nhạc Mỹ đen (nhạc Chuck Berry, Isley Brothers, The Shirelles). Ca khúc này cũng có những giọng ca hòa hát cao giọng falsetto và các chữ doo-wop (shooby doo-wop...). Cách chơi trống cũng rất hay - không thúc giục nhưng rất đều và khỏe.

16 tháng 11, 2010

Hazey Jane I (Jane mù mịt) - Nick Drake (1970)



Do you curse where you come from,
Em rửa nơi xuất phát của em không?
Do you swear in the night
Em thề ban đêm không?
Will it mean much to you
Có nghĩa gì mấy
If I treat you right.
Nếu anh đối xứ tốt với em?
Do you like what you're doing,
Có phải em thích việc em đang làm?
Would you do it some more
Em sẽ làm tiếp không?
Or will you stop once and wonder
Hay em ngừng lại một lần và tự hỏi
What you're doing it for.
Vì lẽ nào em đang làm thế đây.
Hey slow Jane, make sense
Hỡi Jane hãy khoan, khôn ngoan
Slow, slow, Jane, cross the fence.
Khoan, khoan Jane hãy qua hàng rào

Do you feel like a remnant
Có phải em cảm thấy như một tàn dư
Of something that's past
Của cái gì đó đã qua rồi
Do you find things are moving
Em có nghĩ mọi việc đi
Just a little too fast.
Nhanh một tý.
Do you hope to find new ways
Có phải m hy vọng tìm những cách mới
Of quenching your thirst,
Để giải cái khát của em,
Do you hope to find new ways
Em có hy vọng tìm những cách mới
Of doing better than your worst.
Để làm hơn việc kèm nhất của em.
Hey slow Jane, let me prove
Hỡi khoan lại Jane, để cho anh chứng tỏ
Slow, slow Jane, we're on the move.
Khoan khoan Jane, chúng ta lãng du

Do it for you,
Làm thế cho em,
Sure that you would do the same for me one day.
Vì chắc em cũng sẽ làm thế cho anh một ngày nào đó.
So try to be true,
Vậy cố chung tình
Even if it's only in your hazey way.
Mặc dù là chỉ theo cách mù mịt của em

Can you tell if you're moving
Em có biết em đang đi
With no mirror to see,
Dù không có gương để nhìn thấy
If you're just riding a new man
Nếu em chỉ cưởi một đàn ông mới
Looks a little like me.
Trông thấy hơi như anh.
Is it all so confusing,
Mọi việc có phải lộn xộn qúa,
Is it hard to believe
Có phải khó hiểu
When the winter is coming
Lúc mùa đông đến
Can you sign up and leave.
Em có thể đăng tên và đi
Hey slow Jane, clear your eye
Hỡi khoan Jane, hãy làm sáng mắt
Slow, slow Jane, fly on by.
Khoan, khoan, bay đi qua.


Bài ca này thuộc phong trào folk revival (phục hồi gian dân) của Anh quốc. Nick Drake hát và đàn guitar. Hai thành viên của ban nhạc Fairport Convention cũng tham gia. Có người nói rằng nàng Jane này là thuộc cần sa (MJ = marijuana) - vậy Jane được mù mịt. Anh nghĩ rằng đây là một bản tình ca tuyệt vời - là một kiểu tình yêu không mong đến trăm năm. Mình biết nàng không quả quyết với mối tình yêu. Nàng trao tình yêu bao nhiêu cũng được.

15 tháng 11, 2010

Từ bên kia vịnh

Đường chân trời San Francisco nhìn từ phía đông.

Hôm nay tôi được nghỉ việc, vậy tôi sang bên kia vịnh để đi thăm Thư Viện Đại Học Berkeley để đọc báo cũ Việt Nam trên vi phim. Có nhiều thông tin thú vị ít ai nhớ.

Cầu Golden Gate lúc hoàng hôn nhìn từ Berkeley hôm nay

Chủ tịch MAO TRẠCH ĐÔNG
Lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Trung Quốc,
người bạn kính mến của nhân dân Việt Nam
nguồn: báo Nhân dân 1 tháng 10 1971

Ảnh này được đăng trên báo Nhân dân 4 tháng trước khi Tổng Thống Nixon đến Trung Quốc. Đúng là Mao Trạch Đông là bạn của nhân dân nước Việt. Thời của ông Việt Nam được Trung Quốc bảo trợ rất nhiều. Và Mao Trạch Đông không phải là lãnh đạo Trung Quốc lúc đánh Việt Nam năm 1979. Dù thế nào nữa tôi vẫn coi Mao Trạch Đông là một trong những nhân vật ác liệt nhất lịch sử thế kỷ 20.

14 tháng 11, 2010

Nguyễn Viết Xuân, cả nước yêu thương (Nguyễn Viết Xuân The Whole Nation Loves You) - Nguyễn Đức Toàn (1965)

Vừa phải - Tình cảm
Moderato - With Affection

Tôi ghé thăm anh dọc đường hành quân,
I paid you a visit along the marching route,
Nghe tiếng chim ca trên đồi anh nằm
Hear birds singing upon the hill where you lay
Trận địa còn đây đất đá sới nhào, cỏ non lại nhú khắp trên chiến hào.
The battleground's still here, soil, stones overturned, fresh grass is spreading over the trenches
Đây Nguyễn Viết Xuân anh còn đó, nghe tiếng anh hô quân thù khiếp sợ.
Nguyễn Viết Xuân, you still there brother, the enemy was terrified at the sound of your shouts
Từng phút từng giây, bọn xâm lược Mỹ đã phải gục xuống chính nơi đây.
Every minute, every moment, the American invaders must have fallen at exactly this place.

Linh hoạt hơn
Livelier

Cả nước mến yêu người anh hùng bất tử. [Cả nước viết tên người anh hùng bất tử.]
The whole nation dearly loves this immortal hero. [The whole nation inscribes the name of this immortal student]
Trong đoàn quân anh dũng ngoan cường.
In this heroic, persistent corps
Tên anh trùng tên núi tên sông.
Your name is synonymous with the mountains, the rivers
Trong những lời thơ sôi sục căm hờn.
In seething, loathing words of poetry
Trong những bài ca thúc giục ta lên đường.
In sounds that urge us to hit the road.
Tiêu diệt bọn xâm lược Mỹ.
And wipe out the American invaders
Ta nguyện làm theo đồng chí Nguyễn Viết Xuân giục ta đi! [Ta nguyện làm như đồng chí Nguyễn Viết Xuân giục ta đi!]
We pledge to follow comrade Nguyễn Viết Xuân who urges us on! / We pledge to do like you comrade Nguyễn Viết Xuân!


nguồn: Tiếng hát Việt Nam (1964-1975) tập II, Hà Nội: Nxb Văn Hóa, 1977. Trong bước ngoạt hai bản thu âm của Quý Dương (Hoàng Mãnh đàn piano) và Bích Liên ca.

Ca từ đoạn đầu có những nét rất hay - nhạc sĩ mô tả nơi trận địa như là đất thiêng liêng. Dù cả đồi như bị phá (đất đá sới nhào) đây vẫn là chỗ đầy sức sống đang hồi sinh (cỏ non). Nhưng hình như một bài ca phong cách này phải phóng đại. Viết "nghe tiếng anh hô quân thù khiếp sợ" thì không ai trên máy bay được nghe gì. Tất nhiên phải làm bé nhỏ quân thù, nhất là quân thù với lực lượng không quân như Mỹ.

Tôi chưa biết tên nhân vật nào khác được một bài ca tưởng niệm là một chiến sĩ nhiều kinh nghiệm như Nguyễn Viết Xuân. Nguyễn Viết Xuân là chính trị viên trong đơn vị vậy ông bị chết chắc là một mất mát lớn. Ca từ không "ghi tên" người anh hùng - làm thế không đủ vì tên anh hùng là một (trùng) với núi sông.

10 tháng 11, 2010

Phu xe / Ông lão chèo đò

Ngày vừa rồi tôi đã giới thiệu bản rap "Phu xe" của Rapsoul. Trước tiên tôi muốn nói đến vài nét chung của rap Việt và vọng cổ. Thứ nhất là cả hai thể loại nói chung không có bè trầm. Thứ hai là cả đều sử dụng tiết tấu thong thả, không nhanh. Thứ ba là thơ văn của hai thể loại sử dụng đến những câu dài tương đối kết thức với chữ ăn vần.

Lần trước tôi nhật xét rằng chữ "phu" gồm ba nghĩa là người bắt làm lao dịch, người làm nghề nặng nhọc và là người lớn tuổi. Cả ba ý nghĩa này đều đúng với bản rap "Phu xe." Ý nghĩa thứ nhất có lẽ sẽ gây tranh luận nhiều nhất. Tình trạng lao dịch thuộc thời phong kiến làm sao mà vẫn có đến hiện nay? Tôi nghĩa với đầu đề "Phu xe" (chứ phải là "Người kéo xe") tác giả Rapsoul muốn tỏ lên tình trạng "bóc lột" của nghề "phu xe." Làm sao trong một xã hội hiện đại vẫn còn những "người lao động bị bắt đi làm lao dịch" như "trong xã hội cũ"?

Đây là một điệu trải ngược - hiện nay có những phương tiện hiện đại để chở đồ, chở người. Làm sao con người phải bán sức để làm việc vất vả này? Nhưng cùng một lúc có những người rất cần kiếm ăn bằng nghề này. Nếu máy móc thay thế cho họ thì họ kiếm sống bằng cách nào?

Rapsoul cho rằng chúng ta có trách nhiệm với người phu xe đây. Tối thiểu là chúng ta phải "lắng nghe" và thương những người sống vất vả như ông phu xe. Vai trò của người rap này là nói về người phu xe để xã hội không quên ông ấy.

Cách đây hơn một năm tôi đã dịch một bài bản khác về một ông già xứ Việt sống vất vả là bản vọng cổ "Ông lão chèo đò" của soạn giả Viễn Châu. Viết được 50 năm trước đây chắc chắn Viễn Châu có một cách viết ca từ khác với Rapsoul hiện nay. Và khi viết đến một nhân vật cách đây nửa thế kỷ cũng có một quan niệm rất khác.

Những nét chính khi nhìn về ông phu xe là "gian khó," "gian nan," "nhọc nhằn," và "âu lo." Về ước vọng thì ông muốn được "bớt đi" các cái ở trên và được "ấm no." Ảnh hưởng của khí hậu cũng nặng - lúc "nắng cháy vai" lúc "đổ mưa"

Lão chèo đò cũng rất thiếu thốn (ông mặc "manh áo tồi tàn" ăn "cơm hầm canh rau") nhưng ông không cho là thiếu. Khí hậu cũng làm cho ông khổ ("dãi nắng dầm mưa").

Nhu cầu của bản "Phu xe" là người nghe phải nhìn đời ông phu xe và "cảm thông." Ông lão chèo đò nhất định không chịu như vậy. Cả hai nghề đều tự lập - làm hay không làm là tuy người. Nhưng điều đó rất rõ trong ý thức ông lão chèo đò - "khỏe thì đưa khách mệt nằm xả hơi." Và ông không muốn người xung quanh lưu ý đến ông. Ông như đã quyết định bỏ cuộc ganh đua - "Công danh như thể bèo trôi giữa dòng." Lối sống của ông lão này thì dễ nhằm hơn vì ông sống trong cảnh thiên nhiên. Ông lão thì theo dòng êm ả của giòng sông ("trời rộng sông dài"), ông phu xe thì ở trong dòng đồng người.

Rapsoul cũng nhấn mạnh sự xót xa, phong ba và gian nan của "kiếp người." Nói là "kiếp nghèo" thì tất nhiên số phận không cho lối thoát mặc dù người phu xe rất muốn được thoát. Ông lão chèo đò "chẳng mong chi" không nghĩ đến kiếp mình, số mình. Rút cuộc người sống khôn hay dài thì "vẫn không bằng đời của lão."

Bản "Phu xe" có chất "phong trào" nhiều hơn. Những người bị thiếu bị tước luôn cảm thấy bồn chồn sốt ruột mong đợi vào cái gì đó sẽ thay đổi định mệnh của họ. Và họ muốn được nhận ra trong cái đám đồng người trôi qua. Thế là nguyên nhân làm tôi cũng cho rằng chữ "phu" vẫn giữ ý nghĩa "bắt làm lao dịch" ở đây. Ông lão chèo đò thì không dám "bàn nguyện cơ đồ viễn vông / Đời này có cũng như không." Tiền chỉ là phương tiện "mua lấy vài chai rượu" vậy "tiền bạc trả công chẳng nệ." Về đám đông người ông có quan niệm "sang giàu cũng như áng mây bay." Như vậy ông này không được coi là "phu."

Đời của ông lão được phác họa đầy đủ hơn. Ông "Phu xe" thì có nhiều chi tiết về tình hình bên ngoại ("giọt mặn" "vai gầy" "mồ hôi") và rất ít về đời nội tâm của ông. Rapsoul viết đại khái về "đôi bánh" đầu âu lo, gian khó. Cái đoạn cuối thì hay nhất khi mà biết đến một cái cụ thể là cái "cực nhất" và "ước mơ" của người phu xe. Dù ông lão chèo đò là như một người vô hình, ông đã tìm một chỗ riêng tư cho tinh thần ông được giữ tinh khiết. "Sớm còn tối mất bận lòng mà chi."

8 tháng 11, 2010

Phu xe (The Cart Puller) - Rapsoul (2010)

Khi xe lăn lăn đi trong dòng người
When the cart rolls rolls in a current of people
Lăn trên đôi bánh xe nuôi cuộc đời
Rolls upon a pair of its wheels to feed a life.
Đầy vơi bao nhiêu nhọc nhằn khó nói hết thành lời
Full and empty of so much fatigue that is hard to put into words.
Giọt từng giọt mặn cay trên môi nhưng sao luôn luôn mang trên môi vẫn tươi nụ cười
Drops, each salty bitter drop upon your lips, but how is it there's always a fresh smile on your lips.
Xe đi trong mưa bùn lầy, khi nắng oi, trên đường bụi đầy
The cart goes in rain and mud, in stifling sunshine, on dust-filled lanes
Gạt tay mắt cay mệt nhoài, nắng cháy vai còn gầy
Wipe tired bitter eyes, sunlight burns a pair of lean shoulders
Ngày lại ngày vòng xe vẫn lăn, và còn bao nhiêu âu lo vẫn đây còn đầy
Day after day the cart still rolls, and so many worries remain, remain.

Trên đường nắng gắt đầy bụi cay
Upon a blazing, sun-drenched road full of stinging dust.
Xe vẫn lăn và vòng bánh xe vẫn quay
The cart still rolls and the round wheels still turn.
Và ngày lại qua ngày đã chai sạn đôi bàn tay
And the days passing to days have calloused both hands
Mà nào có ai hay sớt chia bớt nỗi nhọc nhằn gian khó
And is there anyone to share, lessen this fatigue and hardship
Vẫn còn đó bao nhiêu nỗi lo về cơm áo gạo tiền
And there remain so many worries about food, clothing and money.
Biết bao nhiêu là nỗi phiền, kiếp nghèo quanh quẩn luân phiên
There are so many worries, a poor man's fate they go around, back and forth
Con người sống qua ngày tháng triền miên cho vất vả tất tả
People live through never-ending days, strenuous, hurried
Chạy ngược chạy xuôi bánh xe đã lăn qua trăm ngả
Running backwards and forwards, the wheels have rolled through a hundred intersections
Mà đời phu xe vẫn không tìm thấy lối ra
And the puller still sees no way out
Xót xa cho kiếp người, ôi kiếp người thương thay kiếp người phong ba kiếp người
Painful for a human fate, oh human fate pity the tempest of human fate
Bao nhiêu gian nan kiếp người
So many hardships, human fate
Mong một ngày mai sáng tươi môi nở nụ cười cho cuộc đời bớt đi nhọc nhằn tăm tối
Hoping for a brighter tomorrow, break into a smile so life to lessen the fatigue and darkness
Cho đời phu xe không còn loay hoay
So the puller's life is no longer troubled
Chỉ còn ấm no mà thôi
There remains comfort, that's all

Ai ai ai ai ai ai?
Who, who?
Ai thương đôi bánh xe mệt nhoài.
Who sympathizes with a pair of tired wheels.
Ai cho vơi đi bớt âu lo ngày dài.
Who will lessen the worries of a long day.

Hôm nay đường chiều lại đổ mưa
Today the afternoon is again flooding with rain
Mưa nặng hạt cho dòng người lại thưa
The rain's heavy drops thin out the stream of people
Vòng bánh xe vẫn lăn mồ hôi chan nước mưa
The wheel's still roll, perspiration dashing the rain
Xe bé hàng nặng
A little cart with heavy goods
Đường trơn còng lưng cố gắng
On slick road, hunching your back, you try

Ai biết cho đời phu xe cực nhất là khi mưa lúc nắng là bao phiền lo
Everyone knows the driver's life is most miserable when it rains, when the sun shines there are so many worries
Nào ai người cho có ai mà lo khi đời phu xe còn gian khó, ngày đói ngày no
Who will give, who'll worry when the driver's life is still hard, one day hungry, another full
Đêm về nằm co
At night lying curled up
Ngày trôi qua rồi đêm qua bao ước mơ dần phôi pha, giờ trôi xa vì bôn ba đời ta
Days flow past, then at night so many dreams slowly fade, now flow far tramping through our lives
Qua hết mùa đông đến mua hè, thu sang vàng lá rồi đông về
Past so many winters to summers, autumn passes golden leaves then winter's back
Xe đi mải miết vẫn không quản vẫn không nề
The cart goes preoccupied, still not minding, not bothered
Khi hát lên khúc ca nay mong sẻ chia đời phu xe
Singing this song I hope to share the puller's life
Vì đời phu xe còn nhiều cơ cực hãy cảm thông và lắng nghe
Because the puller's life still has many hardships, please understand and listen.



Xem video này mình cứ tưởng rằng nhân vật của khúc rap này là bác tài xích lô. Những từ phu xe có nghĩa khác.

Hai chữ phu và xe đều góc từ tiếng Trung Quốc. Phu là 夫 - husband, man (chồng, đàn ông) hay 伕 - porter (người đêm đồ).

Theo Từ điển Hán Việt (Vương Trúc Nhân, Lữ Thế Hoàng soạn [Hà Nội: NXB Văn hóa thông tin, 2001]) thì Phu / 夫 là 1) chồng, 2) đàn ông, 3) người lao động chân tay, hay 4) người lao dịch.

Theo Đại Nam quấc âm tự vị (của Huình Tịnh Paulus Của soạn [Rey, Curiol & Cie, 1895]) thì phu / 夫 là "chồng, tiếng xưng hô người lớn tuổi chẳng kì sang hèn." Nhưng cũng có chụm từ dân phu là "dân làm công," hay nông phu là "kẻ làm ruộng." Hay theo Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý, chủ biên [Nxb Văn hóa Thông tin, 1999]) thì nông phu là "dân cày, người làm ruộng."

Từ điển NTC's Vietnamese-English Dictionary (của Nguyễn Đình Hòa [Lincolnwood, Ill., USA: NTC Pub. Group, 1995]) có thêm những chữ như phu dịch (coolie / cu ly) phu đường (road mender / thợ sửa đường) và phu mỏ (miner / thợ mỏ).

Xe là chữ 車 hay viết đơn giản là chữ 车. Theo Đại Nam quấc âm tự vị thì xe / 車 là "đồ dùng mà chuyên chở theo đàng bộ."

Theo Chinese-Tools.com thì phu xe / 车夫 là cart driver (người kéo xe; người lái xe bò, xe ngựa). Theo Hudong thì 车夫 có nghĩa là "赶车等为职业的人" (person who pulls carts for a living / kẻ kéo xe để kiếm sống).

Theo Đại từ điển tiếng Việt thì phu có nghĩa là "người lao động bị bắt đi làm lao dịch trong xã hội cũ" hay là "người làm nghề nặng nhọc để kiếm sống" hay là "người đàn ông ở tuổi thành niên." Tôi nghĩ rằng ba ỹ nghĩa này hợp lý đối với chủ đề rap này. Phu xe là như bị bắt làm lao dịch, là làm nghề nặng nhọc, là một đàn ông đúng tuổi. Nhưng cũng có thể là người chồng.

Khúc rap này không nói gì đến việc đạp xe, những đã nói đến "chai sạn đôi bàn tay."


Ông Lựu ở Huế (nguồn VietnamNews / blog lebichson.com)

Nói chung tôi ủng hộ những tác phẩm có tính chất xã hội. Tôi sẽ nói thêm về tác phẩm này sau đây.