28 tháng 3, 2009

Trường Kỳ (1946-2009)

(nguồn ảnh: Đài VOA)

Tin đến rất đột ngột - Trường Kỳ qua đời. Chúng tôi chưa được gặp nhau nhưng có hẹn gặp nhau từ lâu rồi. Tôi và Trường Kỳ thỉnh thoảng trao đổi thư từ, email trong vòng 5 năm nay.

Dù không phải là nhạc sĩ, nhạc công ông là một người có đóng góp nhiều cho nhạc Việt. Mới bắt đầu ông chỉ là một fan nhiệt tình rồi thành một ông "bầu" tổ chức những nhạc hội, rồi làm nhà báo, sản xuất phim v.v.

Một đặc tính của một thời nhạc rock ở Mỹ là phong trào DIY - Do It Yourself - nghĩa tự làm việc. Trường Kỳ thật sự là một người kiểu DIY. Bên Châu Mỹ từ năm 1995 ông có tự xuất bản 6 quyển Tuyển Tập Nghệ Sĩ. Trong từng quyển có nhiều thông tin về âm nhạc và nghệ thuật của công đồng Việt Nam ở hải ngoại. Chương trình Nghệ Sĩ Và Đời Sống của trên VOA cũng làm vai trò ấy.

Chắc đóng góp quan trọng nhất của Trường Kỳ là quyển hồi ký của ông với tên Một Thời Nhạc Trẻ. Ông kể lại chính đời của ông, nhưng cũng kể lại lịch sử nhạc rock, nhạc trẻ ở Việt. Sách này được minh họa rất công phụ với nhiều bức ảnh của thuở ấy. Chắc tôi không dám viết bài "Hà Nội rock như thế nào" nếu không được tham khảo sách này (mà chính Trường Kỳ có gửi tặng tôi).

Trường Kỳ rất vui khi nhận được sách của tôi. Trường Kỳ luôn luôn ủng hộ công trình của tôi và có lòng rộng rãi sẵn sáng cho tôi biết cách liên lạc với các bạn của ông trong làng âm nhạc. Trong email cuối cùng này ông viết cho tôi hai hôm trước khi qua đời: "Có cần gì thì cho tôi biết. Sẽ hết lòng giúp anh trong khả năng của tôi. Rất mong có dịp gặp anh. Có thể ở miền Bắc California hay là tại Saigon không biết chừng." Tôi buồn vì biết dịp ấy không đến.

25 tháng 3, 2009

People going wild in a night club called "Le Florence."

Cách đây sáu bảy năm gì đó tôi có làm việc với những người sản xuất phim "The Quiet American." Họ hỏi tôi về nhạc ở Sài Gòn thời của tiểu thuyết ấy. Tôi giúp họ tìm những bài ca phù hợp với bối cảnh ấy. Họ cũng muốn biết về phong cảnh của một vũ trường ở Saigon lúc bấy giờ. Tôi có cung cấp một vài tấm ảnh nhưng rất tiếc rằng tôi chưa biết đến hình ảnh sau đây.

(bấm vào ảnh để phóng đại)

Nhà nghiệp ảnh nổi tiếng Carl Mydans chụp ảnh này tháng 4 1950. Chủ đề ảnh là "People going wild in a night club called "Le Florence." (Dân đang tung hoành ở một hộp đêm gọi là "Le Florence.")

Không biết các thành viên của ban nhạc là dân Phi hay dân Mít?

23 tháng 3, 2009

Dân Chủ và Giáo Dục

Đây là một số nhận xét về quyển Democracy and Education của John Dewey theo kiểu commonplace.

Phạm Anh Tuấn có dịch sách này sang tiếng Việt với tên "Dân chủ và Giáo dục" do Nhà xuất bản Tri Thức xuất bản.

Là một sách triết lý vậy phải nhận rằng đây là một quyển không phải dễ đọc. Nhưng tôi nghĩ rằng đây là một sách rất cần thiết, nhất là ở Việt nam. Ở Mỹ, dù không có nhiều người đọc sách này (ngoài ngành giáo dục), từng ý kiến đã được áp dụng trong nền giáo dục, vậy tôi đọc sách này không thấy quan niệm của ông Dewey xa cách quan niệm của tôi cho lắm. Mục đích của ông Dewey là mở rộng sức sáng tạo của từng cá nhân đang quá trình học tập. Quan niệm của Dewey là một xã hội dân chủ sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhất để phát triển khả năng sáng tạo của từng con người. Dân chủ ở đây không có một ý nghĩa chính trị, nhưng lại thuộc về một cách trao đổi trong xã hội tạo cơ hội để nhiều ý niệm có thể tranh cạnh với nhau một cách thoải mãi và bình đẳng.

Dewey định nghĩa giáo dục là "vital energy seeking opportunity for effective experience." (ch. VI / 1)

Theo Dewey - the technical definition of education "that reconstruction or reorganization of experience which adds to the meaning of experience, and which increase ability to direct the course of subsequent experience." (ch. VI / 3)

"What one is as a person is what one is as associated with others, in a free give and take of intercourse" (ch. IX / 3)

Dewey định nghĩa văn hóa (culture) là "the capacity for constantly expanding in range and accuracy one's perception of meaning" (ch. IX / 3)

XIII / 3 - Intellectual integrity, honesty, and sincerity are at bottom not matters of conscious purpose but of quality of active response... When the demands and wishes of others forbid their direct expression they are easily driven into subterranean and deep channels. Entire surrender, and whole-hearted adoption of the course of action demanded by others are almost impossible... Amiable individuals want to do what they are expected to do.

One has only to recall his own experiences in school or at the present time when outwardly employed in actions which do not engage one's desires and purposes, to realized how prevalent is this attitude of divided attention--double-mindedness... A double standard of reality, one for our own private and more or less concealed interests, and another for public and acknowledged concerns, hampers, in most of us, integrity and completeness of mental action.

XVII / 2 - "... [S]cience marks the emancipation of the mind from devotion to customary purposes and makes possible the systematic pursuit of new ends."

Khoa học đánh dấu sự giải thoát của tâm trí khỏi hiến những mục đích thường lệ và làm cho thể hiện được những kết quả mới bằng một cách tìm tòi có hệ thống. (tôi tạm dịch)

"Science represents the office of intelligence, in projection and control of new experiences, pursued systematically, intentionally, and on a scale due to freedom from limitations of habit."

Khoa học tiêu biểu cho một trung tâm trí thông minh, cùng sự chiếu và điều khiển của những kinh nghiệm mới, tiếp tục một cách có hệ thống, một cách có ý định, còn theo quy mô bởi quyền tự do khỏi các hạn chế của từng thói quen. (tạm dịch)

X/3 - The object of thinking is to help reach a conclusion, to project a possible termination on the basis of what is already given. Since the circumstance in which thinking occurs is a doubtful one, thinking is a process of inquiry, of looking into things, of investigating. Acquiring is always secondary, and instrumental to the act of inquiring.

It also follows that all thinking involves risk. Certainty cannot be guaranteed in advance. The invasion of the unknown is of the nature of an adventure; we cannot be sure in advance.

Vậy sự suy nghĩ luôn đòi hỏi sự nguy hiểm. Sự tin chắc không thể bảo đảm trước.


XVII/2 - Science, in short, signifies a realization of the logical implications of any knowledge.

Science represents the office of intelligence, in projection and control of new experiences, pursued systematically, intentionally, and on a scale due to freedom from limitations of habit. It is the sole instrumentality of conscious, as distinct from accidental, progress.

Khoa học tiếp tục một cách có hệ thống, có ý, và theo mô hình nhờ sự tự do đối với sụ hạn chế của các thói quen.

XIX/2 - The two distinctions, psychological and political, translated into educational terms, effected a division between a liberal education devoted to knowing for its own sake, and a useful, practical training for mechanical occupations, devoid of intellectual and aesthetic content. While the present situation is radically diverse in theory and much changed in fact, the factors of the older historic situation still persist sufficiently to maintain the educational distinction, along with compromises which often reduce the efficacy of educational measures. The problem of education in a democratic society is to do away with the dualism and to construct a course of studies which makes thought a guide of free practice for all and which makes leisure a reward of accepting responsibility for service, rather than a state of exemption from it.

XX/1 - The notion that knowledge is derived from a higher source than is practical activity, and possesses a higher and more spiritual worth, has a long history. The history so far as conscious statement is concerned takes us back to the conceptions of experience and of reason formulated by Plato and Aristotle. Much as these thinkers differed in many respects, they agreed in identifying experience with purely practical concerns; and hence with material interests as to its purpose and with the body as to its organ. Knowledge, on the other hand, existed for its own sake free from practical reference, and found its source and organ in a purely immaterial mind; it had to do with spiritual or ideal interests. Again, experience always always involved lack, need, desire; it was never self-sufficing. Rational knowing, on the other hand, was complete and comprehensive within itself. Hence the practical life was in a condition of perpetual flux, while intellectual knowledge concerned eternal truth.

There is something morally dangerous about experience, as such words as sensual, carnal, material, worldly, interests suggest; while pure reason and spirit connote something morally praiseworthy. Moreover, ineradicable connection with the changing, the inexplicably shifting, and with the manifold, the diverse, clings to experience. Its material is inherently variable and untrustworthy.

Only the single, the uniform, assures coherence and harmony. Out of experience come warrings, the conflict of opinions and acts within the individual and between individuals. From experience no standard of belief can issues, because it is the very nature of experience to instigate all kinds of contrary beliefs, as varieties of local customs have proved. Its logical outcome is that anything is good and true to the particular individual which his experience leads him to believe true and good at a particular time and place.

XXII/2 - Men must observe for themselves, and form their own theories and personally test them. Such a method was the only alternative to the imposition of dogma as truth... An interest in discovery took the place of an interest in systematizing and "proving" received beliefs.

A just philosophic interpretation of these movements would, indeed, have emphasized the rights and responsibilities of the individual in gaining knowledge and personally testing beliefs, no matter by what authorities they were vouched for. But it would not have isolated the individual from the worlds, and consequently isolated individuals--in theory--from one another... Through social intercourse, through sharing in the activities embodying beliefs, he gradually acquires a mind of his own.

Yet there is a valid distinction between knowledge which is objective and impersonal, and thinking which is subjective and personal. In one sense, knowledge is that which we take for granted... Of course we may be mistaken. What is taken for knowledge--for fact and truth--at given time may not be such... Thinking on the contrary, starts, as we have seen, from doubt or uncertainty. It marks an inquiring, hunting, searching attitude, instead of one of mastery and possession. Through its critical process true knowledge is revised and extended, and our convictions as to the state of things reorganized.

XXV/1 - The dualism here is between knowledge as something external, or, as it is often called, objective, and knowing as something purely internal, subject, psychical. There is, on one side, a body of truth, ready-made, and, on the other a ready-made mind equipped with a faculty of knowing--if it only wills to exercise it, which it is often strangely loath to do.

Another current opposition is that said to exist between the intellect and the emotions. The emotions are conceived to be purely private and personal, having nothing to do with the work of intelligence in apprehending facts and truths,--except perhaps the single emotion of intellectual curiosity. The intellect is a pure light; the emotions are a disturbing heat. The mindturns toward outward to truth; the emotions turn inward to considerations of personal advantage and loss.

XXV/2 - The theory of the method of knowing which is advanced in these pages may be termed pragmatic. Its essential feature is to maintain the continuity of knowing with an activity which purposely modifies the environment. It holds that knowledge in its direct sense of something possessed consists of our intellectual resources--of all the habits that render our action intelligent. Only that which has been organized into our disposition so as to enable us to adapt the environment to our needs and to adapt our aims and desires to the situation in which we live is really knowledge. Knowledge is not just something which we are now conscious of, but consist of the dispositions we consciously use in understanding what happens. Knowledge
as an act is bringing some of our dispositions to consciousness with a view to straightening out a perplexity, by conceiving the connection between ourselves and the world we live in.

XXI/3 - ... any subject is cultural in the degree to which it is apprehended in its widest possible range of meanings... To see scientific fact or law in its human as well as in its physical and technical context is to enlarge its significance and give it increased cultural value... The important thing is that the fact be grasped in its social connections--its function in life.

20 tháng 3, 2009

lính Lê Dương - đen trắng

1951 - Tonkin

Im Mai 1951 wird nun also auch das III/2e R.E.I. nach Tonkin verlegt.
Für die folgenden 8 Monate errichtet das Bataillon Posten und Bunker im Rahmen des Ausbaus der De-Lattre-Linie.
Unterbrochen wird die Bauphase nur durch kleinere Operationen.

Operation in Tonkin 1951

Vào tháng 5 1951 đơn vị III/2e R.E.I. vậy cũng chuyển lên Bắc Bộ. Suốt những 8 tháng sau tiểu đoàn này xây lập những đồn và hầm trong bối cảnh phát triển tuyến DeLattre. Giai đoạn xây dựng này chỉ phải ngừng bởi những chiến dịch nhỏ.

Chiến dịch ở Bắc Bộ năm 1951





Vùng quốc lộ 6? Ảnh chụp do một người lính Lê Dương người Đức "Karl Heinz S." Tôi mới tìm ra nhiều website với chất hoài cổ về chiến tranh Đông Dương Việt Pháp. Xem các người ngồi nghỉ trên đồng quê miền Bắc Việt Nam có vẻ không ổn. Đây là nhà, là đất, là ruộng của ai? Các dân bản xứ ở đâu? (Mười năm sau các lính Mỹ sẽ đến xâm lấn trên làng quê miền Nam).

16 tháng 3, 2009

12 tháng 3, 2009

Âm nhạc màu vàng

Đỗ Nhuận viết năm 1958 khi mới lên chức Tổng Thư Ký Hội Nhạc Sĩ Việt Nam:

"Âm nhạc màu vàng" là một danh từ để chỉ những loại nhạc buồn lê thê rũ rượi, chán chường, khêu gợi tình dục, giật gân dâm đãng, hoặc những loại có nội dung phản động.

11 tháng 3, 2009

Tiếng hát trên Sông Lô

Tiếng hát trên Sông Lô (Song Upon Lô River) - Phạm Duy (Tuyên Quang - 1947) - Jason Gibbs dịch


1.

Trên nước sông Lô, thuyền tôi buông lái như xưa

Upon the Lô River’s waters, I can release my boat, take it out like before

Sau lúc phong ba, thuyền tôi qua bến qua bờ

After a moment of tempest, my boat goes past docks, past the shores

Ai nhớ sông Lô, giặc lên ăn cướp dân ta

Whoever remembers the Lô River, the invaders came up here to steal from our people

Tôi nhớ sông Lô, ngày qua chôn xác quân thù

I remember the Lô River, the other day burying the enemy army’s dead

Khoan hỡi khoan hò hò khoan!

Steady, heave ho!

Hỡi cô con gái, giặt yếm bên bờ!

Oh hey there Miss, washing your bodice at the shore!

Thuyền tôi đậu bến sông Lô

My boat is landing at the Lô River docks

Nửa đêm nghe tiếng quân thù... thở ơ ớ ớ ơ than.

In the middle of the night you can hear the enemy soldier’s sighs

Than rằng: Khoan hỡi hò khoan

Sighing: steady heave ho

Hôm nào chiến sĩ Việt Nam

One day Vietnamese warriors

Trên dòng sông mênh mang

Upon the vast river

Súng thần công vang vang

Cannon’s echoed

Sông mờ hoen máu thực dân

The river darkened, stained by the colonists’ blood

Hai nghìn quân Pháp vùi thân

Two thousand French troops buried

Oai hùng thay Lô Giang (3 lần)

How majestic, Lô River

2.

Trên nước sông Lô, thuyền ơi, ta hát say sưa!

Upon the Lô River’s waters, oh boat, we sing elated

Quân cướp đi xa, về đây ta sống chan hoà.

The brigands have gone far, back here we’re living expansively

Sông nước hôm qua còn reo như gió như mưa.

The river waters yesterday howled like wind, like rain

Sông nước hôm nay lại trôi êm ái như xưa.

The river waters today flow peacefully like before

Khoan hỡi khoan hò hò khoan!

Steady, heave ho!

Hỡi anh Vệ Quốc cầm súng ngang tàng!

Hey brother guardsman holding that valiant gun!

Thuyền tôi đậu bến Tuyên Quang

My boat’s docking at the Tuyên Quang docks

Nửa đêm trông ánh trăng vàng (tôi) nhớ anh!

In the middle of the night looking at the golden moon I’ll remember you

Ca rằng: Khoan hỡi hò khoan!

Singing: Steady, heave ho!

Hôm nào chiến sĩ Việt Nam

One day Vietnamese warriors

Trên dòng sông mênh mang

Upon the vast river

Súng thần công vang vang

Cannon’s echoed

Sông mờ hoen máu thực dân

The river darken, stained by the colonists’ blood

Hai nghìn quân Pháp vùi thân

Two thousand French troops buried

Oai hùng thay Lô Giang (3 lần)

How majestic, Lô River

3.

Trên nước sông Lô, từ nay vang tiếng dân ca

Upon the Lô River’s waters, now folk tunes echo

Quân cướp đi xa, về đây ta sống chan hoà

The brigands have gone far, back here we live in harmony

Bên suối xanh lơ, mọc lên những mái tranh xưa

By the blue springs, cottage roofs sprout up like before

Đây chốn biên khu lòng ta như nước sông Lô.

At this war zone our heart’s are like the Lô River’s waters.

Khoan hỡi khoan hò hò khoan!

Steady, heave ho!

Hỡi anh du kích tập bắn trên rừng

Hey, partisan-brother training in the woods

Thuyền tôi đậu bến Đoan Hùng

My boat is docking at the Đoan Hùng docks

Bình minh nghe tiếng chim mừng líu lo!

At dawn I hear the birds melodic celebration!

Chim rằng: Khoan hỡi hò khoan!

It sings: steady, heave ho!

Hôm nào chiến sĩ Việt Nam

One day Vietnamese warriors

Trên dòng sông mênh mang

Upon the vast river

Súng thần công vang vang

Cannon’s echoed

Sông mờ hoen máu thực dân

The river darken, stained by the colonists’ blood

Hai nghìn quân Pháp vùi thân

Two thousand French troops buried

Oai hùng thay Lô Giang (3 lần)

How majestic, Lô River



Trận Sông Lô như một cơn bão - "Sông nước hôm qua còn reo như gió như mưa." Bão tàn thì dân sống bình thường như một thời không rõ trong quá khứ: "Sông nước hôm nay lại trôi êm ái như xưa"; "thuyền tôi buông lái như xưa." Bình yên và thơ mộng - cảnh này cũng có "cô con gái, giặt yếm bên bờ!"


"Tiếng hát trên Sông Lô" đề cập đến một mặt của bài "Sông Lô" là dân chài. Văn Cao rằng: "Vui ca hát hòa vui hát ca hòa dân buông lưới, Phan Lương vui bóng thuyền." Phạm Duy thì: "Trên nước sông Lô, thuyền ơi, ta hát say sưa!"


Viết nhạc tuyên truyền thì phải phóng đại ít hay nhiều. "Sông mờ hoen máu thực dân / Hai nghìn quân Pháp vùi thân." Quyển Cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân Việt Nam [1960] (một sách cũng phóng đại nhiều, nhưng nếu nói cho công bằng thì các bài thời sự và sách sử Pháp lúc bấy giờ cũng thế) cho rằng sự kiện ra sau:


12/10/1947 "Ta bắn chìm 1 ca-nô ở Đoan Hùng"

13/10/1947 "Ta bắn chìm 1 ca-nô ở Bình Ca"

14/10/1947 "Ta bắn chìm 1 ca-nô, 1 tàu chiến ở Khoan Dụ"

18/10/1947 "Ta bắn chìm 1 ca-nô, 2 tàu chiến ở Khoan Dụ"

24/10/1947 "Ta bắn chìm 4 ca-nô, 1 tàu chiến ở Đoan Hùng. Địch chết 350 tên"


Nếu đúng như thế thì quân đội Pháp học rất chậm. Từng ngày mất một thuyền hay nhiều hơn. Thuyền ca-nô thì nhỏ và không có thiết giáp.

7 tháng 3, 2009

Sông Lô

Sông Lô (Lô River) - Văn Cao (1947) - Jason Gibbs dịch

Sông Lô sóng ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm ư.
Lô river, the mountain waves of North Vietnam, long banks of corn sweep across the humming mountain forests.
Thu ru bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm một màu khói thu.
Autumn lulls the river landing in golden waves, each house dimmed blue in the autumn smoke's tint.
Sông Lô sóng ngàn kháng chiến cháy bờ lau thưa đã tàn thôn trang.
Lô river, the mountain waves of resistance blaze sweeping clear the reeded shores, extinguishing the countryside.
Ai qua bến nắng hồng lặng nhìn màu nước sông Lô xưa.
Whoever passes the reddened landing in the sunlight, silently regards the color of the Lô river of old.
Trên dòng sông trở về đoàn người.
A band of people is returning upon the river's current.
Reo mừng vui trên sóng nước biếc.
Happily cheering upon the blue river waves.
Trôi đầy sông bao đám xác thù.
So many enemy corpses flowing past filling the river.
Dân hân hoan nghe sóng reo vi vu xa xa.
The people joyfully listen to the far-off rippling waves
Đường ngập người vang gió lá vi vu hiền hòa.
The road inundated with people resounds, the wind in the leaves gently rustles.
Sông mênh mông như bát ngát hát.
The river is immense like it's endlessly singing.
Thây giặc trôi trở về ngập bờ.
The invader's corpses flow back, inundating the shores.
Sông Gâm âm vang súng trái phá.
The Gâm river resounds with guns and shells.
Bao rừng thu như bát ngát cười.
It's as if so many autumn forests are endlessly laughing.
Dân hoan hô chiến sĩ pháo binh Việt Nam ghi cùng.
The people cheer Vietnam's artillerymen, record their merit.
Triếng trái phá quân thù gục chìm dòng Lô.
The sound of the enemy's shells sinks into the Lô's current.
Đây dòng Lô. Đây dòng Lô.
Here's the Lô's current. Here's the Lô's current.
Đoàn quân thời chinh chiến ca rằng:
Soldiers in time of war sing:
Đây Von-ga, đây Dương Tử, đây Sông Lô, đây sóng căm hờn vút cao.
Here's the Volga, here's the Yangtze, here's the Lô, here the waves of anger crest high.
Sóng lấp lánh vàng sao, ngàn chiến sĩ sông Lô.
The waves shine so golden, the thousands soldiers of the Lô river.
Chiến sĩ sông Lô thân rừng áo sương đang ca rằng:
The Lô river's warriors, their bodies a forest, shirts like the dew are singing:
Giờ mồ thực dân sóng lấp cát vàng.
When the colonizer's grave is filled in with golden sand by the waves.
Chiến sĩ sông Lô oai hùng đấu tranh gào kêu vang sóng.
The Lô river's warriors majestically struggle, calling out over the waves.
Đây giặc Pháp tàn trong căm gan toàn dân.
The French invader's die away here amongst the whole people's rancor.
Về trong đêm gió rết,
Returning in the cold evening wind,
Từng sân vui bóng người quanh lửa hồng.
Each yard is happy with shadows of people surrounding the rosy flames.
Nền khô tro than xám.
A dry base of ash and gray coals.
Đêm chìm đợi ánh triêu dương.
The evening has descended, awaiting the morning sunlight.
Vui ca hát hòa vui hát ca hòa dân buông lưới,
Happy songs mix with happy songs mix with the folks lowering their nets,
Phan Lương vui bóng thuyền.
In Phan Lương, they're happy in the boat's shadow.

Lều dựng lên ven sông, bóng người sầm uất bến Then.
Hut's are built up on the riverbank, the shadow of bustling people at the Then landing
Vui hát ca hòa vui hát ca hòa chí kiến thiết.
Happy songs mix with happy songs mix with resolve to build.
Bên sông Lô đắp nhà.
The Lô riverside is filling up with houses.
Bao dân trong Khu Mười mơ thành người sông Lô.
So many folk in the Tenth Zone dream of becoming people of the Lô river.
Đời vui vút lên. Đời vui sướng về.
A happy life rushes up. A happy life returns.
Vui hát ca hòa vui hát ca hòa chí chiến đấu.
Happy songs mix with happy songs mix with resolve to fight.
Đây tay trai Việt Bắc.
Here are the hands of the Northern Vietnamese men.
Sông Lô đang xuôi mau, tin về đồng lúa reo mừng,
The Lô river's flowing fast, believe in the rice fields of jubilation
Rung trong bao hương đồng,
Stirring up so much of the field's fragrance.
Mừng một mùa chiến công.
Celebrate a season of military achievement.
Vui hát ca hòa vui hát ca hòa dân vui nắng,
Happy songs mix with happy songs mix with folk happy in the sun.
Như chim xuân thấy mùa.
Like spring birds feeling the season.
Và đài hoa lưu luyến, xanh rừng đầy búp lá non.
And the stands of cherished flowers, the green woods full of fresh buds.
Vui hát ca hòa vui hát ca hòa những lưới mắc.
Happy songs mix with happy songs mix with the nets cast.
Ta vui khoang cá đầy.
We happy with our hold full of fish.
Tay ta tay dân chài xuôi ngược dòng sông Lô.
Our hands, the folk's hands cast the net against the Lô river's current.
Từng quăng lưới xa. Từng vây lưới giặc.
Each net cast far will be a net surrounding an invader.
Vui hát ca hòa vui hát ca hòa với ánh sáng.
Happy songs mix with happy songs mix with the light.
Ta đang xây đời mới.
We're building a new life.
Sông nuôi dân thiên thu đã hòa mạch máu bao người.
The river that has fed the folk of a thousand autumns has mixed with the blood vessels of so many people.
Sông xuôi quanh co về.
The river winds its way back home.
Hòa mạch cùng với xuôi.
Mixing the vessels with the downward flow.
Dòng sông Lô trôi,
The Lô river flows
Dòng sông Lô troi, mùa xuân tới, nước băng qua ngàn, nước in ven bờ xanh ôm bóng tre,
The Lô river flows, spring arrives, the water smoothly passes through the mountains, the water is imprinted into the green banks in the bamboo's shadow,
Dòng sông Lô trôi.
The Lô river flows.

Trên báo Sinh hoạt Nội bộ số 4-5 (tháng 11-12 1947) Trường Chinh có viết: "Lợi dụng đến cùng những thắng lợi dù nhỏ để tuyên truyền." Sách sử ở Pháp và Mỹ không kể đến trận Sông Lô nào. Gọi là trận cũng có thể là không ổn--tôi nghĩ gọi là một cuộc phục kích thì đúng hơn. Nhưng trận Sông Lô có vào sách sử Việt Nam vì đó là thắng lợi đầu tiên của cuộc kháng chiến chống Pháp. Và trận ấy cũng vào sách sử nhờ các bài hát ca ngợi thắng lợi này.

Chuyện trong lời ca "Sông Lô" của Văn Cao nghe rất kỳ diệu. Câu chuyện này là như trời đất, sông núi có làm cho Pháp bị thất bại. "Trôi đầy sông bao đám xác thù" - chính dòng Sông Lô có căm thù giết giặc. Dân Việt chỉ làm một vai trò nhỏ nhờ phép kỳ diệu ấy. Tất nhiên có "chí chiến đấu," có "tay trai Việt Bắc" nhưng chí ấy và những bàn tay chỉ là biểu hiện của "căm gan toàn dân" cùng "đồng lúa reo mừng," và "hương đồng." Có một toàn thể thiên nhiên gốm những người sống đời đời ở vùng này. Các người bộ đội chỉ thực hiện ý muốn chung của họ. "Sông nuôi dân thiên thu đã hòa mạch máu bao người." Giòng sông Lô lại là nguồn của thắng lợi này, là mạch máu cho dân Việt. Và "Từng quăng lưới xa. Từng vây lưới giặc" - dân và giòng sông làm việc chung để giết quân thù.

Và sự kiện này làm cho mùa xuân đến. Kết quả trận này là "Lều dựng lên ven sông, bóng người sầm uất bến Then" và "đài hoa lưu luyến, xanh rừng đầy búp lá non." Song điều quan trọng nhất là "Ta đang xây đời mới" - xây đời mới cũng là khẩu hiệu của một cuộc cách mạng.

4 tháng 3, 2009

Bài ca thương binh

Bài ca thương binh (Song of the Wounded Veteran) - Việt Lang (1947) - Jason Gibbs dịch

Còn vang sa trường muôn tiếng súng rền nụ cười hiên ngang say sưa hồn chiến đấu
Still they echo from the battlefield, a million rolling gunshots, proud, excited smiles of fighting souls
Nơi đây xương máu từng rơi dưới sác nguyền
Here blood and bones fall beneath cursed corpses
Vết thương căm hờn lòng chiến sĩ bao giờ quên.
Hatred's wound, the soldier's heart will never forget
Thương binh người lê tấm thân gầy gươm đâu như còn luyến máu say.
The wounded veteran, his person dragging, body lean, where's his sword coated in excited blood
Tay cụt rời nòng súng chiến thắng mắt mơ hoài cờ phất gió bay
Arm cut off, the barrel of victory's gun, eyes always dreaming of the flag flapping in the wind
Bừng lên tia uất đau tràn đầy năm tháng
Up flash smoldering flames smolder, pain overflows the months and years
Lá rơi bay về ngàn phương
Falling leaves fly in a thousand directions
Bay non sông còn ủ ấp bao là tình thương vang trong tim lời thề xương máu.
Fly, the mountains and rivers envelop so much love in the heart with its vows of bones and blood
Trí phục thù như ngàn trùng dương sôi sục khi chiều buông.
The will for revenge of a thousand ages boils as evening falls

Bài ca này được giải hai trong Cuộc Thi Nhạc Thương Binh năm 1947. (Không có giải nhật). Bài "Dân ca" (Nhớ người thương binh) cũng dự thi nhưng không dược giải.

1 tháng 3, 2009

Việt Lang 1927-2008

Bài báo vĩnh biệt nhạc sĩ Việt Lang đến khá muộn - Nguyễn Thụy Kha có viết một bài tưởng niệm ngày 17 tháng 8 trên báo Lao Động. Tôi đã được biết đến thông tin này qua hai blog Nhat Si Bao Thu va Thay Giao Lang. Việt Lang sinh ngày 30 tháng 11 năm 1927 ở làng Phú Hiếu, huyn Duyên Hà, tnh Thái Binh. Ông qua đời 31 tháng 7 năm 2008 ở Hà Nội. Tôi được hân hạnh gặp Việt Nam mùa thu 1997.

Tên thật của Việt Lang là Lê Qúy Hiệp - tổ tiên của ông là Lê Quý Đôn. Ông lớn lên ở Hưng Yên - bố ông làm công chức của Bưu Điện. Ông học hai năm tại trường Saint Thomas ở Nam Định rồi học tại École Primaire Superieure Indochinois ở Hà Nội. Lúc kháng chiến bùng nổ ông có sáng tác vài bài ca khá nổi tiếng là "Chiều Yên Thế" (bài ca chính thức của đoàn Hoàng Hoa Thám) và "Nhớ Quê Hương."

Ông tham gia kháng chiến ở khu III và trong những năm 1945-1950 ông từng sáng tác vai chục ca khúc đã được rất phổ biến một thời. Nhat Si Bao Thu có viết về Việt Lang: "bằng những giai điệu thật trong sáng, đẹp cả về hình tượng âm nhạc lẫn văn học, Việt Lang đã đi sâu vào tâm hồn những người lính thời ấy."

Nhạc của Việt Lang đã được các thính giả ở vùng kháng chiến và ở thành thị tạm chiếm đều hoan nghênh. Vì vậy có lẽ nhạc của ông không đủ "lập trường." Nhạc của ông bị coi là quá lãng mạn, tiểu tư sản. Theo Thay Giao Lang: "Sau đó người ta thấy anh [Việt Lang] lặng lẽ rút lui khỏi môi trường âm nhạc quen thuộc, môi trường đã từng mang lại cho anh một chút tiếng tăm... Thời điểm anh lặng lẽ rút lui khỏi Âm nhạc lại là một giai đoạn hết sức nhậy cảm<1950,1951>." Cùng trường hợp ấy một số người nhạc sĩ bỏ kháng chiến về thành thị (dinh-tê). Một số nhạc sĩ theo nhu cầu thời đại - hăng hái hay không hăng hái. Như ông Thay Giao Lang viết về trường hợp của chính ông và những người như Việt Lang: "nếu không còn có thể viết lách theo đúng quỹ đạo do các cấp lãnh đạo vạch ra nữa thì tốt hơn hết là nghỉ viết đi, nhường bước cho những người khác. Còn mình thì nên chọn cho mình một lối thoát nào đẹp nhất." Việt Lang chọn lối giáo dục thành một người giáo viên. Một thời gian (hình như từ độ 1975 đến 1990 gì đó) ông làm nghề đó ở nước Angola.

Từ thời ấy không có tác phẩm mới nào với tên tác giả Việt Lang xuất hiện nữa. Đây không có nghĩa là Lê Quý Hiệp không sáng tác nữa. Hình như ông sáng tác với tên Lê Hiệp (dù tôi chưa tìm ra bài ca nào với bút danh này) và sau năm 1990 với bút danh Huy Lê. Với bút danh Lê Huy nôg cũng viết nhiều bài báo và dịch các sách văn chương Phía Tây không có gì lạ (Im Westen nichts Neues) của Erich Maria Remarque (một tiểu thuyết phản kháng nổi tiếng) [Nxb Văn hóa 1962], Lão Gôriô (Le père Goriot) [Nxb Văn học 1967].

Dưới đây là danh sách của những bài ca của Việt Lang / Huy Lê. Một số bài ông cung cấp bản nhạc, một vài tôi từ tìm ra, một số tôi chưa tìm ra, và một số nữa tôi nghĩ là không còn nữa.



Bài ca Cách Mnh Tháng Tám

Bài ca học sinh Việt Nam

Bài ca thương binh

Bến xưa

Bình xuyên

Chiu Yên Thế

Chúng tôi là Đoàn quân trong Liên Khu III

Dưới ánh trăng thu

Đàn xuân

Đất nước Nam

Đoàn quân đi

Đoàn quân min Nam

Mùa không biên gii

Ngày Quốc tế Lao Động

Nhng hình bóng qua

Rm trung thu

Thu trên sông

Tiến lên đời sng mi

Tình bin ca

Tình quê hương

Trong muôn sao

V làng xưa

Huy Lê:

Bài ca về Thế kỷ 21 / A Song For the Twenty-First Century (bài ca song ngữ)

Hà Nội mùa xuân

Khúc chia tay

Một đóa hoa đào thẳm

Mùa thu cho em

Tr v thăm trường cũ

T thành ph xa xôi