Ê mi-ly, con đi cùng cha
Emily, come with me
Sau khôn lớn con thuộc đường, khỏi lạc...
Later you'll grow up you'll know the streets, no longer feel lost
- Đi đâu cha?
- Where are we going, dad?
- Ra bờ sông Pô-tô-mác
- To the banks of the Potomac
- Xem gì cha?
- To see what, dad?
Không con ơi, chỉ có Lầu ngũ giác.
Nothing my child, there's just the Pentagon.
Ôi con tôi, đôi mắt tròn xoe
Oh my child, your round eyes
Ôi con tôi, mái tóc vàng hoe
Oh my child, your locks so golden
Đừng có hỏi cha nhiều con nhé!
Don't ask your father so many questions, dear!
Cha bế con đi, tối con về với mẹ...
I'll carry you out, this evening you'll going home with your mother...
Oa-sinh-tơn
Washington
Buổi hoàng hôn
Twilight
Ôi những linh hồn
Oh, those souls
Còn, mất
That remain or are lost
Hãy cháy lên, cháy lên Sự thật!
Blaze, blaze the Truth!
Giôn-xơn!
Johnson!
Tội ác bay chồng chất
You fucker, your crimes accumulate
Cả nhân loại căm hờn
All humanity detests
Con quỷ vàng trên mặt đất.
The yellow demon upon this earth.
Mày không thể mượn nước son
You cannot borrow the crimson waters
Của Thiên Chúa, và màu vàng của Phật!
Of God, and Buddha's yellow.
Mác Na-ma-ra
McNamara
Mày trốn đâu? Giữa bãi tha ma
Where are you hiding, asshole? In the burial yard
Của toà nhà năm góc
Of a five corner building
Mỗi góc, một châu.
Each corner a continent
Mày vẫn chui đầu
You still squeeze your head
Trong lửa nóng
Inside hot flames
Như đà điểu rúc đầu trong cát bỏng.
Like the ostrich buries its head in the scorching sands
Hãy nhìn đây!
Look over here!
Nhìn ta phút này!
Look at me right now!
Ôi không chỉ là ta với con gái nhỏ trong tay
Oh it's not only me with my little daughter in my arms
Ta là Hôm nay
I am Today
Và con ta, Ê-mi-ly ơi, con là mãi mãi!
And my daughter, oh Emily, you are forever!
Ta đứng dậy,
I stand awake,
Với trái tim vĩ đại
With the great heart
Của trăm triệu con người
Of a hundred million
Nước Mỹ.
Americans.
Để đốt sáng đến chân trời
To flame, light up the horizon
Một ngọn đèn
A light
Công lý.
Of Justice.
Hỡi tất cả chúng bay, một bầy ma quỷ
Hey all you fuckers, pack of devils
Nhân danh ai?
In whose name?
Bay mang những B 52
You bring B52s
Những na-pan, hơi độc
Napalm, poison gas
Từ toà Bạch Ốc
From the White House
Từ đảo Guy-am
From Guam
Đến Việt Nam
To Vietnam
Để ám sát hoà bình và tự do dân tộc
To liquidate peace and national freedom
Để đốt những nhà thương, trường học
To incinerate hospitals and schools
Giết những con người chỉ biết yêu thương
Murder people who only know love
Giết những trẻ em chỉ biết đi trường
Murder kids who only know going to school
Giết những đồng xanh bốn mùa hoa lá
Murder green fields, four seasons of leaves and blossoms
Và giết cả những dòng sông của thơ ca nhạc hoạ!
And even murder rivers of poetry, music and art!
Nhân danh ai?
In whose name?
Bay chôn tuổi thanh xuân của chúng ta trong những quan tài
You bury the bloom of our youth in coffins
Ôi những người con trai khoẻ đẹp
Oh, those strong, handsome sons
Có thể biến thiên nhiên thành điện, thép
Who can transform nature to into electricity, steel
Cho con người hạnh phúc hôm nay!
For people's happiness today!
Nhân danh ai?
In whose name?
Bay đưa ta đến những rừng dày
You bring me to dense jungles
Những hố chông, những đồng lầy kháng chiến
Spiked pits, muddy fields of resistance
Những làng phố đã trở nên pháo đài ẩn hiện
Villages that become fortress that disperse to reappear
Những ngày đêm đất chuyển trời rung...
Nights and days where the heavens and earth shake and jolt
Ôi Việt Nam, xứ sở lạ lùng
Oh Vietnam, a strange land
Đến em thơ cũng hoá thành những anh hùng
To the children who become heroes
Đến ong dại cũng luyện thành chiến sĩ
To the wild bees who train to be warriors
Và hoa trái cũng biến thành vũ khí!
And the trees and flowers become weapons!
Hãy chết đi, chết đi
Go ahead and die, die
Tất cả chúng bay, một bầy ma quỷ!
All you jerks, a pack of demons
Và xin nghe, nước Mỹ ta ơi!
And I ask that you listen, my America!
Tiếng thương đau, tiếng căm giận đời đời
To the voices of pain, of eternal hatred
Của một người con. Của một con người thế kỷ
Of a child. Of a person of this century
Ê-mi-ly, con ơi!
Emily, oh child!
Trời sắp tối rồi...
It's beginning to get dark...
Cha không bế con về được nữa!
I can carry you no further
Khi đã sáng bùng lên ngọn lửa
When I ignite, light up as a flame
Đêm nay mẹ đến tìm con
Tonight, your mother will come find you
Con sẽ ôm lấy mẹ mà hôn
You'll hug her and kiss
Cho cha nhé
Her for me
Và con sẽ nói giùm với mẹ:
And tell your mother this for me:
Cha đi vui, xin mẹ đừng buồn!
I left happy, mother don't be sad!
Oa-sinh-tơn
Washington
Buổi hoàng hôn
Twilight
Còn mất?
Remains or is lost?
Đã đến phút lòng ta sáng nhất
It's come, the moment when my heart's brightest
Ta đốt thân ta
I set fire to myself
Cho ngọn lửa chói loà
So the flames dazzle
Sự thật.
Truth.
Em bé Ê-mi-ly, 18 tháng, là con gái út của No-man Mo-ri-xơn. Yêu con tha thiết, ngày 2-11-1965, anh Mo-ri-xơn đã bế Êmi-ly từ nhà đến lầu năm góc, và nhìn con lần cuối cùng, trước khi tự thiêu để phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.
The little girl Emily, 18 months old, is the youngest daughter of Norman Morrison. So great was his love, on November 11, 1965, Morrison brought Emily from home to the Pentagon and looked at her a final time before he self-immolated to oppose the American war of invasion in Vietnam.
(7-11-1965)
"War Critic Burns Himself To Death Outside Pentagon," New York Times (November 3, 1965), 1. ["Người phê bình chiến tranh tử thiêu ở ngoại lầu Ngũ giác"}
[Ann Morrison's statement / lời tuyên bố của Ann Morrison (vợ ông Morrison)]
"Norman Morrison has given his life today to express his concern over the great loss of life and human suffering caused by the war in Vietnam. He was protesting our Government's deep military involvement in this war. He felt that all citizens must speak their convictions about our country's action."
Norman Morrison dâng hiến đời anh hôm nay để biểu lộ sự lo ngại về sự chết liên miên và đau khổ do chiến tranh Việt Nam gây ra. Anh biểu tình chống sự liên lụy sâu sắc của quân sự của Chính phủ ta trong cuộc chiến tranh này. Anh nghĩ rằng tất cả mọi công dân phải nói lên quan điểm của họ về hành động đất nước ta.
"Death of a Quaker: His friends see a lesson," New York Times (November 7, 1965), 2. ["Sự chết của một người đạo Quaker: Các bạn thấy một bài học]
Ông Morrison đã cho rằng: The richer we get materially, the poorer we get spiritually. (Ta được càng giàu về vật chất thì bị càng nghèo về tinh thần).
- "Norman was a mystic," the friend continued. "He had a direct, emotional experience of God, not as a master puppeteers pulling the strings, but as a creative force of love."
- In the recollection of conversations with Mr. Morrison there is an endlessly restated question: What can a man do with his life? How can he best show his beliefs? When must thoughts give way to deeds?
Norman là một người thần bí," anh bạn nói tiếp. "Anh ấy được sự gặp phải trực tiếp và đầy xúc cảm của Chúa là không phải một chủ nhân điều khiển các con rối nhưng mà là sinh lực sáng tạo của tình thương."
- Khi người ta nhắc đến các cuộc nói chuyên với ông Morrison có một câu hỏi được đặt lại luôn: Một con người nên làm thế nào về đời mình? Con người bày tỏ niềm tin tưởng mình bằng cách nào? Bao giờ cho các điều suy nghĩ thành hành động?
Tôi không dịch bài thơ của Tố Hữu theo cách của hai nhà thơ Kevin Bowen và Nguyễn Quang Thiều. Các từ "bay," "mày," "chúng bay," "chúng mày" là lời chửi, phải không? Nói thế là nói tục, là không lịch sự. Tôi dịch chữ chửi tiếng với chữ chửi tiếng Anh. Lúc bố tự thiêu bé Emily sắp lên một tuổi (không phải 18 tháng như Tố Hữu kể) vậy ông Morrison nói gì thì con gái thì không thể nghe hiểu gì - vậy miễn phải nghe những lời chửi, "bầy quỷ" của nhà thơ tưởng tượng.
Morrison như người Việt thời bấy giờ là người có lý tưởng cao. Bài thơ này gần như xúc phạm lý tưởng của ông - Morrison không phải là một người thô tục, một người muốn xem thanh niên "luyện thành chiến sĩ," không muốn "hoa trái cũng biến thành vũ khí." Nói cho đơn giản, Morrison đòi hòa bình. Morrison không ủng hộ quân lực của Mỹ hay của Việt Nam. Tôi hiểu tại sao cá nhân Tố Hữu có lý do cá nhân để chửi Johnson và McNamara. Nhưng ông Morrison là gần như một mục sư - là một người hiếu đạo Quaker của mình. Morrison chống hành động của Johnson và McNamara nhưng Morrison không kêu "thương đau," "căm giận đời đời." Quan điểm của Morrison gần y hệt Nhất Chi Mai là "lòng nhân bản ... muốn nói Hòa Bình."
Tôi đang đọc một quyển xuất sắc viết về thời ấy là The Living and The Dead: Robert McNamara and Five Lives of a Lost War [Những người sống và kẻ chết: Robert McNamara và năm đời của một cuộc chiến thất bại] của Paul Hendrickson (New York: Alfred Knopf, 1996). Sách này kể nhiều về ông Morrison và Emily. Tôi cũng sẽ giới thiệu và dịch một số bài ca Việt viết về Norman Morrison.
Mọi dân tộc (Tv. 71) – Mi Trầm.
2 giờ trước
7 nhận xét:
Ồ, những đính chính về người tử vì đạo thật giá trị. Cám ơn anh đã đưa những thông tin này :-)
Chào anh,
Cái ông Tố Hữu này là vậy đó! Hồi em học từ lớp 6 lớp 7 đến lớp 12 là phải học thuộc lòng thơ ông này và thơ của "Bác Hồ", vì không thuộc thì điểm văn chương sẽ bị kém.
Vì anh là người nghiên cứu nên anh phải tiếp tục công việc, chứ nếu anh là người thường thì em sẽ khuyên "bỏ đi Tám" :-)
Cách anh dịch thêm vào các chữ "assholes", "you f___er", "jerks" nghe cũng đã tai thiệt, và giọng văn Tố Hữu chửi "Đế Quốc Mỹ" đúng là nặng nề cỡ vậy.
Đón chờ các bài giới thiệu về ô Morrison của anh. Riêng việc tìm hiểu chiến tranh Việt Nam đối với em thì rất thờ ơ, sợ đụng chạm nhiều tới những vết thương lòng.
Chào anh,
Thank you for making this beautiful poem available! I have reposted it, with credit and links to you, at http://thecahokian.blogspot.com/2013/09/anti-americana-remember-norman-morrison.html
Nặng nề không có trong bài. Những từ Chúng bay, ... là một trong những từ làm bài văn thêm mãnh liệt
Thank you for sharing this. I am deeply ashamed of my county's behaviour during the war, and sorrow for the consequences you still suffer today. America -- the bright heart of her -- has not forgotten what was done in her name.
'chúng bay', 'chúng mày' không phải là chữi bậy mặc dù theo tôi thì dùng từ 'các ngươi' sẽ hay hơn. Nhưng tôi không phải người thời ấy, không rõ được văn hóa ngôn ngữ thời ấy.
'chung bay', 'chúng mày' are not swear words even though I believe that 'các ngươi' might be better. But I did not know much about that period of history so I cannot speak on behalf of its language culture.
the translation of 'chúng bay', 'chúng mày' into 'you fucker', 'assholes' accelerate the hostility of these words.
in my opinion, 'you fuckers', 'assholes' = 'tụi khốn nạn', 'lũ đốn mạt'
not to be proud but I believe that the range between words of love/ politeness and swear words in Vietnamese is more streaching than it is in English (both American and British).
In culture, English is developed in the atmosphere of individualism, nuclear family, leading to the simplicity of English pronouns. In contrast, Vietnamese is developed in the community where every smallest difference in relationship is taken into account, thus, leading to a bunch of sophisticated pronouns.
Both culture have its own reasons, advantages and drawbacks depending on situation.
Often, in translation, these mismatches come out clearly and create misunderstandings.
Like in the poem when the poet use 'chúng bay', 'chúng mày'.
To be honest, I use these words for my friends, neighbors, classmates, relatives and many more.
May be when they are accompanied with other emotional expressions of the poem as well as historical context make readers feel like they are hostile words, swear words.
But no, without the context, they are completely neutral (a bit impolite but also a bit friendly, just like Jack to Jacky, and William to Bill)
Theo cách nói bình dân tiếng Anh nhiều người Mỹ nói tục với nhau một cách thân mật. Cái gọi là "n-word" là một thí dụ. Mục đích chính của tuyên truyền thời chiến chống Mỹ là tạo ra một nỗi căm thù mãnh liệt với địch. Tôi vẫn nghĩ là Tố Hữu muốn chửi đế quốc Mỹ.
Đăng nhận xét