30 tháng 3, 2011

hoa xuân sa mạc 2011






Ngày 26 và 27 vừa rồi cả nhà đi vùng Sa mạc Mojave và Thung lũng chết (Death Valley) xem cảnh. Mỗi mùa xuân sa mạc nở hoa.

24 tháng 3, 2011

Người ở lại Charlie (He Who Stayed Behind At Charlie) - Trần Thiện Thanh (1972)

1.
Anh! Anh! Hỡi anh ở lại Charlie
Brother! Oh you stayed behind at Charlie
Anh! Anh! Hỡi anh giã từ vũ khí.
Brother! Oh you bid farewell to your weapon
Vâng, chính anh là ngôi sao mới
Yes, it's you who are a new star
Một lần này chợt sáng trưng
This once, a sudden dazzle
Là cánh dù đan bằng tiếc thương vô cùng.
A parachute sewn from endless regrets

Này anh! Anh! Hỡi anh ở lại Charlie
Here brother! Oh you stayed behind at Charlie
Anh! Vâng, chính anh là loài chim quí.
Brother! Yes, it's you who are a kind of precious bird
Ôi, cánh chim trùng khơi vạn lý
Oh, a bird on the wing thousands of leagues across the open seas
Một lần dậy cánh bay
Once lifting your wings to fly
Người để cho người nước mắt trên tay.
Someone who bequeaths tears upon their hands.

ĐK:
Ngày anh đi, anh đi
Today you've gone, you've gone
Anh đi từ tổ ấm
You've gone from the warm nest
Anh ơi, địa danh nào thiếu dấu chân anh?
Brother, name the places that lack your footfall
Đợi anh về
Await your return
Chỉ còn trên vầng trán đứa bé thơ tấm khăn sô
Remains upon the forehead of a youngster in morning garb
Bơ vơ người góa phụ cầu được sống trong mơ.
Abandoned, the widow prays to live in dream.

Tou Morong, Đắc Tô, Krek, Snoul
Khe Sanh gió mùa, đêm Hạ Lào thức sâu

Khe Sanh windy noon season, Lower Lào a deep vigil
Anh! Cũng anh vừa ở lại một mình,
Brother! You also have just been left behind alone
Vừa ở lại một mình
Just left behind alone
Charlie, tên vẫn chưa quen người dân thị thành.
Charlie, a name still not yet known by city folk.

2.
Anh! Anh! Nhớ anh trời làm cơn bão
Brother! Remembering you, the skies make a storm
Anh! Anh! Tiếc anh chiều rừng thay áo
Brother! Regretting you, evenings the jungle changes its gown
Ôi! Vết đau nào đưa anh đến
Oh! What painful wound has brought you
Ngàn đời của nhớ thương
Thousands of generations of longing
Hỡi bức chân dung trên công viên buồn.
Hail the portrait upon the sad park.

Xin một lần thôi, một lần thôi
I ask just this once, just this once
Vẫy tay tạ từ Charlie.
To wave goodbye to Charlie.
Xin một lần nữa, một lần nữa
I ask one time more, one time more
Vẫy tay chào buồn anh đi.
To wave sadly as you leave.


Lâu lắm tôi không hiểu rõ nghĩa của Charlie. Hình như lính Cộng Hòa phát âm như "Sắc Ly." Tôi hiểu nhầm rằng Charlie là Victor Charlie (V.C. - nghĩa là Việt Cộng). Thực sự Charlie của bài ca này là một đồi gần Quốc lộ 14, Đắc Tô (khu Kon Tum). Gọi là Charlie vì quân đội Mỹ đặt tên ấy theo cách nói qua vô tuyến điện. Thay thế cho chữ "C" viết ngắn họ nói Charlie để được nghe rõ hai chữ. Chỗ Charlie có vai trò quan trọng chiến lược của hai bên vì nằm gần cái gọi là Ho Chi Minh Trail (Đường Trường Sơn). Năm 1966 cũng là trận địa của Operation Hawthorne và 1967 khu này cũng là trận địa Operation Greeley của quân đội Mỹ.



Người ở lại trên đồi Charlie là một sĩ quan nhảy dù - Đại Tá Nguyễn Đình Bảo. Có một số trang web giải thích rất chi tiết về trận này. Ở lại Charlie có nghĩa là trận khốc liệt quá vậy lúc rút quân thì lính không được rút lại xác của ông Bảo.

Video Youtube sau đây chắc của Trung Tâm Asia sản xuất cũng kể chuyện này (theo cách nhìn của cựu quân nhận quân đội Việt Nam Cộng Hòa). Theo tác giả Phan Nhật Nam thì bài ca "Người ở lại Charlie" viết để "hoài niệm cảm tạ" những người lính dù chết 12 tháng 4 năm 1972. Ông phát biểu: "Hóa ra trong những ngày chúng ta bình yên ở Saigon đã có những người lính chét trên ở Khe Sanh..."



Chính đó là vấn đề - các người ở thành thị thì bị chiến tranh ảnh hưởng không nhiều lắm. Vậy phải có "bức chân dung trên công viên buồn" để giúp mọi người nhớ lại. Phải làm cho Charlie là một tên "quen" của "người dân thị thành." Vai trò của bài ca này là làm cho dân thành thị không quên sự hy sinh của các lính Cộng Hòa.

Bài ca này nhắc đến những địa điểm Kampuchia nghe rất lạ như: Krek, Snoul, Dambe. Chắc là những trận địa lính nhảy dù đã từng đi đánh. Trần Thiện Thanh cũng sử dụng nhiều ẩn dụ cho nhảy dù - ngôi sao, chim quí, bay, trùng khơi, v.v.

Nhật Trường và Thanh Lan ca năm 1972

Nhạc slow rock nghe khá luyến tiếc. Giai điệu có nét fanfare như nhạc quân sự.

21 tháng 3, 2011

Thương như ghét

Tôi vừa đọc xong Love Like Hate là tên của tiểu thuyết đầu tay của Linh Dinh. Linh Dinh là một trong những nhà văn Việt nổi tiếng nhất. Tôi theo dõi blog của Linh Dinh và rất thích độ và cách viết của anh ấy.

Love Like Hate tựa vào kinh nghiệm của Linh Dinh sống ở Philadelphia và về sống ở Việt Nam một thời gian. Tôi không có ý kiến viết điểm sách (dù tôi rất thích sách này).

Sách này dài 238 trang. Chụm từ "Love Like Hate" mới được giới thiệu ở cuối sách trên trang 189. Con gái của nhân vật chính phải lòng một tay rocker tên là Quang Trung. Quang Trung là ca sĩ của ban nhạc Love Like Hate. Ban nhạc này chơi punk rock - một loại nhạc Việt Nam chưa từng có vì chắc loại nhạc không hợp với sở thích của các rocker ở Việt Nam và vì chính quyển sợ loại nhạc này sẽ gây loạn. Love Like Hate là "ban nhạc nhà" (house band) của một hộp đêm gọi là World War III.

Quang Trung là con của một cán bộ cao ở phòng hải quan. Anh ấy chọn tên Love Like Hate - Thương như ghét vì anh ấy cảm thấy như vậy về Việt Nam - "I love Vietnam so much I hate her. How can I not hate her when I love her so much" (Tôi yêu Việt Nam biết bao vậy tôi cũng ghét nó. Sao mà không ghét nó lúc mà yêu nó biết bao). Rồi Quang Trung coi mình như đứa con của một mẹ Việt Nam mà "sells her pussy" (bán bướm mình) - bán cho Trung Quốc, Pháp, Nga, Mỹ và Đài Loan. "She'd sell her pussy to anyone because she feels inferior to everyone. She's thrilled to be humiliated because someone is paying attention to her" (Nó sẽ bán bướm mình cho bất cứ ai vì cảm thấy thấp kém hơn mọi người. Nó sướng run lên lúc chịu nhục vì có người để ý đến nó - trang 192).

Cái nào quen thuộc quá, hiểu biết quá sẽ rất dễ được thương, dễ bị ghét. Mình sẽ biết rõ các nhược điểm. Việt Nam hiện nay có nhiều điều làm mình (và nhiều người) thấy khó chịu. Nước Mỹ cũng thế. Đây mới là chữ ambivalence - theo trang Wiktionary (chắc ghi chép từ nguồn khác) là "Sự vừa yêu, vừa ghét (cái gì); sự mâu thuẫn trong tư tưởng." Cái đó là bình thường. Chỉ có sự bất thường nếu không được phép tỏ ra ambivalence này.


Love Like Hate: A Novel / Linh Dinh (New York: Seven Stories Press, 2010).

20 tháng 3, 2011

Wonderin' (Tự hỏi) - Neil Young and the Shocking Pinks (1983)

I've been walking all night long
Anh lang thanh đi bộ cả đêm thâu
My footsteps made me crazy
Từng bước chân làm anh điên
Baby, you've been gone so long
Em ơi, em xa cách đã bao lâu
I'm wonderin' if you'll come home
Anh tự hỏi nếu em sẽ về
I'm hopin' that you'll be my baby
Mong đợi em thành em yêu của anh

I've been talking all day long
Anh đã nói cả ngày dài
To keep my heart from sadness
Để che trái tim anh không bị buồn
Baby, you've been gone so long
Em yêu, em xa cách đã bao lâu
I'm wonderin' if you'll come home
Anh tự hỏi nếu em sẽ về
I'm hopin' that you'll be my baby
Mong đợi em thành em yêu của anh
I'm wonderin' if I'll be alone
Anh tự hỏi giá anh sẽ lẻ loi
Knowin' that I need you to save me.
Biết rằng anh cần đến em cứu anh.

I'm wonderin', I'm wonderin'...
Anh tự hỏi, tự hỏi...



Neil Young là một rocker Canada lâu năm. Bài ca này năm 1983 là một trong những năm đầu của MTV. "Wonderin'" là bài ca chính trong album "Everybody's Rockin'" mà nhiều người cho là album ít thành công nhất của Young.

Tôi rất thích bài hát này và video này. Young trở về cội nguồn của nhạc rock là phong cách rockabilly như Elvis Presley và Carl Perkins. Ông cho rằng rất thích album này dù là "surface songs" (ca khúc ngoài mặt) không có "depth" (chiều sâu).

Neil Young trong video trông như điên - điên vì tự hỏi về cô ấy. Ông lang thang đi dạo trong cách cảnh trời xanh khu Los Angeles - một chỗ mà ít ai đi dạo. Ca từ của Young chỉ tỏ rằng nỗi buồn và ước lệ của một kẻ thất tình. Nhưng các trình bày của Young làm cho cảm giác thất tình ấy nhẹ đi - mình buồn, thì cứ cười.

13 tháng 3, 2011

Ngày sinh của rắn (The Snake's Birthday) - Phạm Công Thiện (1966?)

Mười năm qua gió thổi đồi tây
Tôi long đong theo bóng chim gầy
Một sớm em về ru giấc ngủ
Bông trời bay trắng cả rừng cây

Gió thổi đồi tây hay đồi đông
Hiu hắt quê hương bến cỏ hồng
Trong mơ em vẫn còn bên cửa
Tôi đứng trên đồi mây trổ bông

Gió thổi đồi thu qua đồi thông
Mưa hạ ly hương nước ngược dòng
Tôi đau trong tiếng gà xơ xác
Một sớm bông hồng nở cửa đông.



Ten years ago winds blew in the western hills
I struggled to follow a gaunt bird's shadow
Early one day, dear, you returned, your song lulling slumber
The sky's blush casting white across the entire forest

Winds blew in the hills, west or east
Lightly to a homeland, docks of rosy grasslands
In dreams you're still at the door
I stand upon a hill, clouds abloom

Winds blew the autumn hills past those of pine
Summer, having left my land, going against the stream
I'm pained by the wretched rooster's clarion
Early morn a rose bloomed at winter's door to the east.

9 tháng 3, 2011

Tấm ảnh miền Trung từ Randall Lee Foster Collection

Texas Tech Vietnam Center and Archive tiếp tục cho các ảnh của Randall Lee Foster chụp lên trên mạng. Đây thêm các tấm ảnh chụp ở miền Trung trong những năm 60. Nhiều ảnh nhìn như trong giấc mơ.





















8 tháng 3, 2011

Tình như một đường gươm (Love is Like Swordplay) - Du Tử Lê (1974)

ngày tuyệt vời đã tới
an excellent day arrived

sống, như một đường gươm
vital, like swordplay

cần chi biết mộ phần
no need to experience the grave

một phút nào sẽ chết
one minute you'll die
sống, như một vết thương
vital, like a wound

hồn, tận cùng đã mở
soul, to the end, opened

dẫu địa ngục thiên đàng
whether heaven or hell

ta là ta trước đã
we are what we were before
ta là ta trước đã
we are what we were before

ôi đớn đau xé đời
oh, tribulations rend life

bật lên ân nghĩa mới
erupting into new blessings

dù uống cạn tình điên
even drinking mad love to the bottom

có chi là đắc tội
what is there that is offensive
lên đến đỉnh đam mê
rising to passion's pinnacle
thấy bàng hoàng cõi khác
feeling dumbfounded in other realms

xuống tận cùng xác thân
lowered to the body's end

mới nghe hồn nhã nhạc
only then listening the soul of regal music
nửa đời ta tối tăm
half our lives in gloom

giòng máu nào xối chảy
what blood cascades

rửa sạch muôn nghìn năm
wiping clean many thousand years

ám ảnh thời mới lớn
haunting a time of maturity
ám ảnh thời mới lớn
haunting a time of maturity

sống, như một cơn giông
living, like an ill wind

bão bùng hơi thở mặn
the storm flaring its salty breath

khép kín giòng trăm năm
enclosing a century's flow
ghì ôm hồn đã cạn
tightly embracing a dried out soul
nổ vỡ đam mê người
exploding human passions

cứu trần gian vật dục

rescuing this mortal life, the carnal
gìn giữ đớn đau tôi
hold tight to my tribulations

cho đời sau hưởng phúc
so the afterlife enjoys fortune
cho đời sau hưởng phúc
so the afterlife enjoys fortune
hôm nay em là người
today you are human

bởi tôi cần cứu rồi
because I needed rescue

chúa xuống tự làn môi
godhead descends from lips

em thổi tôi lớn dậy
you blow me large arising

người một phút quên ngôi
someone one minute left behind the throne

hà hơi tôi sống lại
your kiss of life, I'm rescuscitated
em xuống giữa tim đời
you descended into life's heart

tôi lột tôi tưa máu
i shed my skin, trickled blood

da bọc tình trăm năm
skin covering the love of a lifetime

hồn dâng người cứu rồi
spirits rise, someone rescued
hồn dâng người cứu rồi

spirits rise, someone rescued
em, lựa đời tối tăm

you, who've chosen a somber life
ngày tuyệt vời đã tới
an excellent day arrived

em khóc cùng ta chăng?
will you cry with us, perhaps?
vết thương nào khép miệng
what wound seals your mouth

sẽ kéo thành da non
will extend becoming young skin

em có đi suốt cuộc
have you gone through it all

cùng ta tìm thiên đàng
with me to look for paradise

em có còn ca vang
have you still sung forth

khi đằng xa, địa ngục?
when far off, in hell?
tình như một đường gươm
love is like swordplay

ngực đây, gươm hãy ngập
my breast is here - enter sword


Tôi được làm quen với bài thơ này qua blog của Quốc Bảo. Bài thơ này khó dịch và cũng khó hiểu. Gọi là liebestod chắc là được. Liebestod là một từ góc từ ca kịch opera Richard Wagner được dịch là love death (tình ái-chết) hay erotic death (tình dục-chết) là hoàn thành tình ái trong lúc chết. Du Tử Lê cũng sử dụng đến nhiều hình ảnh về nghiệp và số phận người.

3 tháng 3, 2011

Thêm tấm ảnh của Randall Lee Foster Collection

Tôi không biết gì mấy về Randall Lee Foster. Tôi chỉ biết rằng gia đình ông biếu nhiều bản kính dương (slides) của ông chụp thời ông ở Viêt Nam cho lưu trữ Vietnam Center and Archive. Chắc ông Foster là một người lính vì nhiều tấm ảnh được chụp ở các bốt Mỹ.

Cách nhìn của Foster rất hay và ông chụp cả trắng và đen ở Việt Nam. Tôi cũng nên báo với quý độc giả rằng các ảnh ở dưới (kiểu "đen") không nên cho trẻ em coi.