30 tháng 11, 2010

Vua với cây đàn

Le passe-temps favori de l'empereur durant son séjour en France
Trò tiêu khiển thích thú nhất của Hoàng Đế trong sự lưu lại ở Pháp


nguồn: André Sumer, "L'évolution politique de l'Indochine," France illustration (Numéro spécial sur L'Indochine [1948]). [Sức tiến triển chính trị ở Đông Pháp]

Công dân Vĩnh Thụy thích tập đàn piano.

S. M. Bao Dai au volant d'une voiture rapide a Montlhéry
Bệ hạ Bảo Đải bay qua trong một xe cao tốc ở Montlhéry


nguồn: S. E. Pham Van Binh, "S. M. Bao Dai: Empereur democrate et sportif accompli," France illustration (Numéro spécial sur L'Indochine [1948]) [Bệ hạ Bảo Đại: Hoàng đế dân chủ và nhà thể thao thành công]

Phải chăng bệ hạ thích chạy xe nhiều hơn?

23 tháng 11, 2010

How The Beatles Rocked the Kremlin (Nhóm Beatles làm điện Crem-Lanh được rock) (2009)

Nhân dịp sinh nhật 70 của John Lennon (và kỷ niệm 30 năm của việc ông bị ám sát), vợ chồng tôi được xem phim tài liệu How The Beatles Rocked the Kremlin trên kênh 9.

Quan điểm của Leslie Woodhead (người sản xuất phim này) là nhóm The Beatles đã làm cho nước Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản tan rã. Tôi nghĩ nói thế thì quá đáng - những yếu tố quân sự (Afghanistan) và kinh tế (giá xăng hạ xuống) rất là quan trọng.

Nhưng Woodhead nhận xét đúng rằng The Beatles là mũi nhọn của một cuộc cách mạng quốc tế. The Beatles làm cho thế hệ trẻ (thế hệ 5x) được phản đối thế hệ trước và các khuôn khổ xã hội sẵn có một cách vui tươi, hồn nhiên và có văn hóa.

Chính phủ Liên Xô đã muốn giữ độc quyền về mọi mặt thông tin, văn hóa và tư tưởng. Nhưng nhạc của The Beatles đã có một sức hấp dẫn họ không đủ sức để ngăn cản. Trong một xã hội chính thống các fan của The Beatles tìm được một nơi trú ẩn cho niềm ước tự do cá nhân. Họ thành những lính không súng mà không chấp nhận đường lối của chính phủ Liên Xô. Nếu quan niệm của Woodhead đúng thì đoan lính này đã thành quá đông đến mực cơ chế chính phủ cộng sản không tồn tại được.

Mời các bạn coi đây - xem quan niệm ông Woodhead đúng hay không?

Video này không được embed.

Phần 1
Phần 2
Phần 3
Phần 4
Phần 5

19 tháng 11, 2010

Lê Thị Hồng Gấm, sống anh dũng, chết vẻ vàng, (Lê Thị Hồng Gấm, Lived Heroically, Died Gloriously)

tranh: Nguyễn Bích. Nhân dân (16 tháng 10 1971).

1 - Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo yêu nước, Lê Thị Hồng Gấm tham gia công tác cách mạng từ khi còn nhỏ tuổi. Ba má tích cực đấu tranh chống Mỹ-ngụy, Hồng Gấm cũng dẫn đường cán bộ đi công tác.

1 - Born and growing up in a poor, patriotic peasant family, Lê Thị Hồng Gấm participated in revolutionary assignments since she was little. Her mom and dad zealously fighting against the Americans and their puppets, Hồng Gấm also led the way for cadres to carry out their assignments.

2 - Hàng trăm chuyến công tác giao liên đầy gian khổ, thử thách, hàng chục lần gặp địch phục kích hoặc bị chúng bắt giữ, Hồng Gấm dũng cảm, mưu trí chiến thắng quân thù và hoàn thành nhiệm vụ.

2 - Hundreds of liaison trips full of hardships and trials, hundreds of times meeting the enemy in ambush or being detained, Hồng Gấm heroically and resourcefully defeated the enemy and completed her duties.

3 - Hồng Gấm đi về các xóm ấp gặp khó khăn nhất, đến những "ấp chiến lược" tuyên truyền, vận động và tổ chức đồng bào tham gia các lực lượng đấu tranh chính trị và đội du kích, xây dựng xã, ấp chiến đấu.

Hồng Gấm went back to the hamlets facing the most difficulties, coming to "strategic hamlets" to propagandize, campaign and organize her compatriots to participate in the forces for political struggle and partisan squads, to build combat hamlets.

4 - Vừa chỉ huy, Hồng Gấm vừa dẫn đầu các mũi tiến công các đồn bốt, "ấp chiến lược", diệt bọn ác ôn, phá ách kìm kẹp, giúp sức đồng bào nổi dậy giành lại quyền làm chủ.

As she commanded, Hồng Gấm led the attack on each post and "stratetic hamlet," wiping out the thugs, breaking the yoke of the lock up, helping her compatriot's strength in rising up to retake their authority as masters.

5 - Trong một chuyến đi công tác cùng hai bạn gái, Hồng Gái gặp hai máy bay lên thẳng của địch tới đổ quân vay bắt. Chị chỉ đường cho hai bạn tránh thoát. Một mình Hồng Gấm dừng lại, giương súng bắn rơi một máy bay lên thẳng, diệt bọn Mỹ-ngụy trên máy bay.

5 - During a trip on a mission with two girlfriends, Hồng Gấm encountered enemy two helicopters coming to spill out troops to surround and capture them. She showed a way for her two friends to escape. Alone, Hồng Gấm stopped, lifted her rifle and shot down a helicopter, wiping out the Americans and their lackeys inside.


6 - Bọn lính ngụy trên chiếc máy bay lên thẳng còn lại đổ xuống định vây bắt Hồng Gấm. Chị bắn nhiều tên ngã gục, ghim đầu những tên khác xuống. Khi bắn xong viên đạn cuối cùng cũng là lúc Hồng Gấm bị mấy vết thương nặng. Biết mình không thể sống được, Hồng Gấm đập gãy nát khẩu súng, không để lọt vào tay giặc, Hồng Gấm hy sinh lúc 19 tuổi.

6 - The puppet troops in the remaining helicopter poured out planning a round-up to capture Hồng Gấm. She shot many gangsters down, pulled down other gangsters. Once she shot her last bullet was the moment she became seriously wounded. Knowing that she couldn't live, smashing her gun so it wouldn't fall into the hands of the enemy, Hồng Gấm sacrificed her life at age 19.

17 tháng 11, 2010

Revolution 1 (Cách mạng 1) - The Beatles / John Lennon (1968)

You say you want a revolution
Bạn nói muốn làm cách mạng hả
Well, you know
Này, bạn biết
We all want to change the world
Mọi chúng ta đều muốn thay thế giới
You tell me that it's evolution
Bạn nói rằng đây là sự tiến triển
Well, you know
Này, bạn biết
We all want to change the world
Mọi chúng ta đều muốn thay thế giới

But when you talk about destruction
Nhưng khi bạn nói đến sự phá hủy
Don't you know that you can count me out / in
Bạn phải biết rằng có thể đếm tôi ở ngoài / trong

Don't you know it's going to be alright?
Bạn biết không mọi sự sẽ ổn?

You say you got a real solution
Bạn nói rằng có giải pháp thật hả
Well, you know
Này, bạn biết
We'd all love to see the plan
Mọi chúng ta đều ước nhìn thấy kế hoạch
You ask me for a contribution
Bạn xin tôi đóng góp
Well, you know
Này, bạn biết
We're doing what we can
Mọi chúng đang làm theo khả năng

But if you want money for people with minds that hate
Nhưng nếu bạn muốn tiền cho loài người có tâm căm hờn
All I can tell you is brother, you have to wait
Tôi chỉ nói được, anh ơi, hãy phải đợi chờ

Don't you know it's going to be alright?
Bạn biết không mọi sự sẽ ổn?

You say you'll change the constitution
Bạn nói sẽ đổi hiện pháp hả
Well, you know
Này, bạn biết
We don't love to change our head
Mọi chúng ta không ưa đổi đầu não mình
You tell me it's the institution
Bạn nói là tại cơ chế
Well, you know
Này, bạn biết
You better free your mind instead
Bạn hãy giải phóng tâm trí bạn thay thế

But if you go carrying pictures of Chairman Mao
Nhưng nếu bạn cứ mang áp phích ảnh Mao Chủ Tịch
You ain't gonna make it with anyone anyhow
Bạn sẽ chả hòa hợp với bất cứ ai thế nào nữa

Don't you know it's going to be alright?
Bạn biết không mọi sự sẽ ổn?


Năm 1968 thời bài ca này ra đời không biết bài ca này được phổ biến ở Việt Nam. Đây nhất định là một ca khúc chính trị - nhưng đây là chính trị cá nhân. Bài này không được rõ lắm về lập trường. Người hát (Lennon) muốn thay thế giới nhưng lúc tham gia sự phá hủy của cuộc cách mạng thì không biết là "in" hay "out".

Cuộc cách mạng của Lennon không phải một cách mạng dân tộc, khoa học, và nhất định không phải đại chúng nữa. Lennon thấy không cần đổi hiện pháp và các cơ chế - việc quan trọng là phải đổi chính mình - đổi tâm trí mình. Nhưng không theo một khuôn khổ có sẵn. Mọi người nên "giải phóng tâm trí" của mình. Và Lennon cũng không chấp nhận sự căm ghét - tiêu biểu là Mao Chủ Tịch.

Nhạc này theo kiểu blues r&b nặng. Đặc điểm của nhóm The Beatles là những năm ban đầu họ chơi và thuộc rất nhiều nhạc Mỹ đen (nhạc Chuck Berry, Isley Brothers, The Shirelles). Ca khúc này cũng có những giọng ca hòa hát cao giọng falsetto và các chữ doo-wop (shooby doo-wop...). Cách chơi trống cũng rất hay - không thúc giục nhưng rất đều và khỏe.

16 tháng 11, 2010

Hazey Jane I (Jane mù mịt) - Nick Drake (1970)



Do you curse where you come from,
Em rửa nơi xuất phát của em không?
Do you swear in the night
Em thề ban đêm không?
Will it mean much to you
Có nghĩa gì mấy
If I treat you right.
Nếu anh đối xứ tốt với em?
Do you like what you're doing,
Có phải em thích việc em đang làm?
Would you do it some more
Em sẽ làm tiếp không?
Or will you stop once and wonder
Hay em ngừng lại một lần và tự hỏi
What you're doing it for.
Vì lẽ nào em đang làm thế đây.
Hey slow Jane, make sense
Hỡi Jane hãy khoan, khôn ngoan
Slow, slow, Jane, cross the fence.
Khoan, khoan Jane hãy qua hàng rào

Do you feel like a remnant
Có phải em cảm thấy như một tàn dư
Of something that's past
Của cái gì đó đã qua rồi
Do you find things are moving
Em có nghĩ mọi việc đi
Just a little too fast.
Nhanh một tý.
Do you hope to find new ways
Có phải m hy vọng tìm những cách mới
Of quenching your thirst,
Để giải cái khát của em,
Do you hope to find new ways
Em có hy vọng tìm những cách mới
Of doing better than your worst.
Để làm hơn việc kèm nhất của em.
Hey slow Jane, let me prove
Hỡi khoan lại Jane, để cho anh chứng tỏ
Slow, slow Jane, we're on the move.
Khoan khoan Jane, chúng ta lãng du

Do it for you,
Làm thế cho em,
Sure that you would do the same for me one day.
Vì chắc em cũng sẽ làm thế cho anh một ngày nào đó.
So try to be true,
Vậy cố chung tình
Even if it's only in your hazey way.
Mặc dù là chỉ theo cách mù mịt của em

Can you tell if you're moving
Em có biết em đang đi
With no mirror to see,
Dù không có gương để nhìn thấy
If you're just riding a new man
Nếu em chỉ cưởi một đàn ông mới
Looks a little like me.
Trông thấy hơi như anh.
Is it all so confusing,
Mọi việc có phải lộn xộn qúa,
Is it hard to believe
Có phải khó hiểu
When the winter is coming
Lúc mùa đông đến
Can you sign up and leave.
Em có thể đăng tên và đi
Hey slow Jane, clear your eye
Hỡi khoan Jane, hãy làm sáng mắt
Slow, slow Jane, fly on by.
Khoan, khoan, bay đi qua.


Bài ca này thuộc phong trào folk revival (phục hồi gian dân) của Anh quốc. Nick Drake hát và đàn guitar. Hai thành viên của ban nhạc Fairport Convention cũng tham gia. Có người nói rằng nàng Jane này là thuộc cần sa (MJ = marijuana) - vậy Jane được mù mịt. Anh nghĩ rằng đây là một bản tình ca tuyệt vời - là một kiểu tình yêu không mong đến trăm năm. Mình biết nàng không quả quyết với mối tình yêu. Nàng trao tình yêu bao nhiêu cũng được.

15 tháng 11, 2010

Từ bên kia vịnh

Đường chân trời San Francisco nhìn từ phía đông.

Hôm nay tôi được nghỉ việc, vậy tôi sang bên kia vịnh để đi thăm Thư Viện Đại Học Berkeley để đọc báo cũ Việt Nam trên vi phim. Có nhiều thông tin thú vị ít ai nhớ.

Cầu Golden Gate lúc hoàng hôn nhìn từ Berkeley hôm nay

Chủ tịch MAO TRẠCH ĐÔNG
Lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Trung Quốc,
người bạn kính mến của nhân dân Việt Nam
nguồn: báo Nhân dân 1 tháng 10 1971

Ảnh này được đăng trên báo Nhân dân 4 tháng trước khi Tổng Thống Nixon đến Trung Quốc. Đúng là Mao Trạch Đông là bạn của nhân dân nước Việt. Thời của ông Việt Nam được Trung Quốc bảo trợ rất nhiều. Và Mao Trạch Đông không phải là lãnh đạo Trung Quốc lúc đánh Việt Nam năm 1979. Dù thế nào nữa tôi vẫn coi Mao Trạch Đông là một trong những nhân vật ác liệt nhất lịch sử thế kỷ 20.

14 tháng 11, 2010

Nguyễn Viết Xuân, cả nước yêu thương (Nguyễn Viết Xuân The Whole Nation Loves You) - Nguyễn Đức Toàn (1965)

Vừa phải - Tình cảm
Moderato - With Affection

Tôi ghé thăm anh dọc đường hành quân,
I paid you a visit along the marching route,
Nghe tiếng chim ca trên đồi anh nằm
Hear birds singing upon the hill where you lay
Trận địa còn đây đất đá sới nhào, cỏ non lại nhú khắp trên chiến hào.
The battleground's still here, soil, stones overturned, fresh grass is spreading over the trenches
Đây Nguyễn Viết Xuân anh còn đó, nghe tiếng anh hô quân thù khiếp sợ.
Nguyễn Viết Xuân, you still there brother, the enemy was terrified at the sound of your shouts
Từng phút từng giây, bọn xâm lược Mỹ đã phải gục xuống chính nơi đây.
Every minute, every moment, the American invaders must have fallen at exactly this place.

Linh hoạt hơn
Livelier

Cả nước mến yêu người anh hùng bất tử. [Cả nước viết tên người anh hùng bất tử.]
The whole nation dearly loves this immortal hero. [The whole nation inscribes the name of this immortal student]
Trong đoàn quân anh dũng ngoan cường.
In this heroic, persistent corps
Tên anh trùng tên núi tên sông.
Your name is synonymous with the mountains, the rivers
Trong những lời thơ sôi sục căm hờn.
In seething, loathing words of poetry
Trong những bài ca thúc giục ta lên đường.
In sounds that urge us to hit the road.
Tiêu diệt bọn xâm lược Mỹ.
And wipe out the American invaders
Ta nguyện làm theo đồng chí Nguyễn Viết Xuân giục ta đi! [Ta nguyện làm như đồng chí Nguyễn Viết Xuân giục ta đi!]
We pledge to follow comrade Nguyễn Viết Xuân who urges us on! / We pledge to do like you comrade Nguyễn Viết Xuân!


nguồn: Tiếng hát Việt Nam (1964-1975) tập II, Hà Nội: Nxb Văn Hóa, 1977. Trong bước ngoạt hai bản thu âm của Quý Dương (Hoàng Mãnh đàn piano) và Bích Liên ca.

Ca từ đoạn đầu có những nét rất hay - nhạc sĩ mô tả nơi trận địa như là đất thiêng liêng. Dù cả đồi như bị phá (đất đá sới nhào) đây vẫn là chỗ đầy sức sống đang hồi sinh (cỏ non). Nhưng hình như một bài ca phong cách này phải phóng đại. Viết "nghe tiếng anh hô quân thù khiếp sợ" thì không ai trên máy bay được nghe gì. Tất nhiên phải làm bé nhỏ quân thù, nhất là quân thù với lực lượng không quân như Mỹ.

Tôi chưa biết tên nhân vật nào khác được một bài ca tưởng niệm là một chiến sĩ nhiều kinh nghiệm như Nguyễn Viết Xuân. Nguyễn Viết Xuân là chính trị viên trong đơn vị vậy ông bị chết chắc là một mất mát lớn. Ca từ không "ghi tên" người anh hùng - làm thế không đủ vì tên anh hùng là một (trùng) với núi sông.

10 tháng 11, 2010

Phu xe / Ông lão chèo đò

Ngày vừa rồi tôi đã giới thiệu bản rap "Phu xe" của Rapsoul. Trước tiên tôi muốn nói đến vài nét chung của rap Việt và vọng cổ. Thứ nhất là cả hai thể loại nói chung không có bè trầm. Thứ hai là cả đều sử dụng tiết tấu thong thả, không nhanh. Thứ ba là thơ văn của hai thể loại sử dụng đến những câu dài tương đối kết thức với chữ ăn vần.

Lần trước tôi nhật xét rằng chữ "phu" gồm ba nghĩa là người bắt làm lao dịch, người làm nghề nặng nhọc và là người lớn tuổi. Cả ba ý nghĩa này đều đúng với bản rap "Phu xe." Ý nghĩa thứ nhất có lẽ sẽ gây tranh luận nhiều nhất. Tình trạng lao dịch thuộc thời phong kiến làm sao mà vẫn có đến hiện nay? Tôi nghĩa với đầu đề "Phu xe" (chứ phải là "Người kéo xe") tác giả Rapsoul muốn tỏ lên tình trạng "bóc lột" của nghề "phu xe." Làm sao trong một xã hội hiện đại vẫn còn những "người lao động bị bắt đi làm lao dịch" như "trong xã hội cũ"?

Đây là một điệu trải ngược - hiện nay có những phương tiện hiện đại để chở đồ, chở người. Làm sao con người phải bán sức để làm việc vất vả này? Nhưng cùng một lúc có những người rất cần kiếm ăn bằng nghề này. Nếu máy móc thay thế cho họ thì họ kiếm sống bằng cách nào?

Rapsoul cho rằng chúng ta có trách nhiệm với người phu xe đây. Tối thiểu là chúng ta phải "lắng nghe" và thương những người sống vất vả như ông phu xe. Vai trò của người rap này là nói về người phu xe để xã hội không quên ông ấy.

Cách đây hơn một năm tôi đã dịch một bài bản khác về một ông già xứ Việt sống vất vả là bản vọng cổ "Ông lão chèo đò" của soạn giả Viễn Châu. Viết được 50 năm trước đây chắc chắn Viễn Châu có một cách viết ca từ khác với Rapsoul hiện nay. Và khi viết đến một nhân vật cách đây nửa thế kỷ cũng có một quan niệm rất khác.

Những nét chính khi nhìn về ông phu xe là "gian khó," "gian nan," "nhọc nhằn," và "âu lo." Về ước vọng thì ông muốn được "bớt đi" các cái ở trên và được "ấm no." Ảnh hưởng của khí hậu cũng nặng - lúc "nắng cháy vai" lúc "đổ mưa"

Lão chèo đò cũng rất thiếu thốn (ông mặc "manh áo tồi tàn" ăn "cơm hầm canh rau") nhưng ông không cho là thiếu. Khí hậu cũng làm cho ông khổ ("dãi nắng dầm mưa").

Nhu cầu của bản "Phu xe" là người nghe phải nhìn đời ông phu xe và "cảm thông." Ông lão chèo đò nhất định không chịu như vậy. Cả hai nghề đều tự lập - làm hay không làm là tuy người. Nhưng điều đó rất rõ trong ý thức ông lão chèo đò - "khỏe thì đưa khách mệt nằm xả hơi." Và ông không muốn người xung quanh lưu ý đến ông. Ông như đã quyết định bỏ cuộc ganh đua - "Công danh như thể bèo trôi giữa dòng." Lối sống của ông lão này thì dễ nhằm hơn vì ông sống trong cảnh thiên nhiên. Ông lão thì theo dòng êm ả của giòng sông ("trời rộng sông dài"), ông phu xe thì ở trong dòng đồng người.

Rapsoul cũng nhấn mạnh sự xót xa, phong ba và gian nan của "kiếp người." Nói là "kiếp nghèo" thì tất nhiên số phận không cho lối thoát mặc dù người phu xe rất muốn được thoát. Ông lão chèo đò "chẳng mong chi" không nghĩ đến kiếp mình, số mình. Rút cuộc người sống khôn hay dài thì "vẫn không bằng đời của lão."

Bản "Phu xe" có chất "phong trào" nhiều hơn. Những người bị thiếu bị tước luôn cảm thấy bồn chồn sốt ruột mong đợi vào cái gì đó sẽ thay đổi định mệnh của họ. Và họ muốn được nhận ra trong cái đám đồng người trôi qua. Thế là nguyên nhân làm tôi cũng cho rằng chữ "phu" vẫn giữ ý nghĩa "bắt làm lao dịch" ở đây. Ông lão chèo đò thì không dám "bàn nguyện cơ đồ viễn vông / Đời này có cũng như không." Tiền chỉ là phương tiện "mua lấy vài chai rượu" vậy "tiền bạc trả công chẳng nệ." Về đám đông người ông có quan niệm "sang giàu cũng như áng mây bay." Như vậy ông này không được coi là "phu."

Đời của ông lão được phác họa đầy đủ hơn. Ông "Phu xe" thì có nhiều chi tiết về tình hình bên ngoại ("giọt mặn" "vai gầy" "mồ hôi") và rất ít về đời nội tâm của ông. Rapsoul viết đại khái về "đôi bánh" đầu âu lo, gian khó. Cái đoạn cuối thì hay nhất khi mà biết đến một cái cụ thể là cái "cực nhất" và "ước mơ" của người phu xe. Dù ông lão chèo đò là như một người vô hình, ông đã tìm một chỗ riêng tư cho tinh thần ông được giữ tinh khiết. "Sớm còn tối mất bận lòng mà chi."

8 tháng 11, 2010

Phu xe (The Cart Puller) - Rapsoul (2010)

Khi xe lăn lăn đi trong dòng người
When the cart rolls rolls in a current of people
Lăn trên đôi bánh xe nuôi cuộc đời
Rolls upon a pair of its wheels to feed a life.
Đầy vơi bao nhiêu nhọc nhằn khó nói hết thành lời
Full and empty of so much fatigue that is hard to put into words.
Giọt từng giọt mặn cay trên môi nhưng sao luôn luôn mang trên môi vẫn tươi nụ cười
Drops, each salty bitter drop upon your lips, but how is it there's always a fresh smile on your lips.
Xe đi trong mưa bùn lầy, khi nắng oi, trên đường bụi đầy
The cart goes in rain and mud, in stifling sunshine, on dust-filled lanes
Gạt tay mắt cay mệt nhoài, nắng cháy vai còn gầy
Wipe tired bitter eyes, sunlight burns a pair of lean shoulders
Ngày lại ngày vòng xe vẫn lăn, và còn bao nhiêu âu lo vẫn đây còn đầy
Day after day the cart still rolls, and so many worries remain, remain.

Trên đường nắng gắt đầy bụi cay
Upon a blazing, sun-drenched road full of stinging dust.
Xe vẫn lăn và vòng bánh xe vẫn quay
The cart still rolls and the round wheels still turn.
Và ngày lại qua ngày đã chai sạn đôi bàn tay
And the days passing to days have calloused both hands
Mà nào có ai hay sớt chia bớt nỗi nhọc nhằn gian khó
And is there anyone to share, lessen this fatigue and hardship
Vẫn còn đó bao nhiêu nỗi lo về cơm áo gạo tiền
And there remain so many worries about food, clothing and money.
Biết bao nhiêu là nỗi phiền, kiếp nghèo quanh quẩn luân phiên
There are so many worries, a poor man's fate they go around, back and forth
Con người sống qua ngày tháng triền miên cho vất vả tất tả
People live through never-ending days, strenuous, hurried
Chạy ngược chạy xuôi bánh xe đã lăn qua trăm ngả
Running backwards and forwards, the wheels have rolled through a hundred intersections
Mà đời phu xe vẫn không tìm thấy lối ra
And the puller still sees no way out
Xót xa cho kiếp người, ôi kiếp người thương thay kiếp người phong ba kiếp người
Painful for a human fate, oh human fate pity the tempest of human fate
Bao nhiêu gian nan kiếp người
So many hardships, human fate
Mong một ngày mai sáng tươi môi nở nụ cười cho cuộc đời bớt đi nhọc nhằn tăm tối
Hoping for a brighter tomorrow, break into a smile so life to lessen the fatigue and darkness
Cho đời phu xe không còn loay hoay
So the puller's life is no longer troubled
Chỉ còn ấm no mà thôi
There remains comfort, that's all

Ai ai ai ai ai ai?
Who, who?
Ai thương đôi bánh xe mệt nhoài.
Who sympathizes with a pair of tired wheels.
Ai cho vơi đi bớt âu lo ngày dài.
Who will lessen the worries of a long day.

Hôm nay đường chiều lại đổ mưa
Today the afternoon is again flooding with rain
Mưa nặng hạt cho dòng người lại thưa
The rain's heavy drops thin out the stream of people
Vòng bánh xe vẫn lăn mồ hôi chan nước mưa
The wheel's still roll, perspiration dashing the rain
Xe bé hàng nặng
A little cart with heavy goods
Đường trơn còng lưng cố gắng
On slick road, hunching your back, you try

Ai biết cho đời phu xe cực nhất là khi mưa lúc nắng là bao phiền lo
Everyone knows the driver's life is most miserable when it rains, when the sun shines there are so many worries
Nào ai người cho có ai mà lo khi đời phu xe còn gian khó, ngày đói ngày no
Who will give, who'll worry when the driver's life is still hard, one day hungry, another full
Đêm về nằm co
At night lying curled up
Ngày trôi qua rồi đêm qua bao ước mơ dần phôi pha, giờ trôi xa vì bôn ba đời ta
Days flow past, then at night so many dreams slowly fade, now flow far tramping through our lives
Qua hết mùa đông đến mua hè, thu sang vàng lá rồi đông về
Past so many winters to summers, autumn passes golden leaves then winter's back
Xe đi mải miết vẫn không quản vẫn không nề
The cart goes preoccupied, still not minding, not bothered
Khi hát lên khúc ca nay mong sẻ chia đời phu xe
Singing this song I hope to share the puller's life
Vì đời phu xe còn nhiều cơ cực hãy cảm thông và lắng nghe
Because the puller's life still has many hardships, please understand and listen.



Xem video này mình cứ tưởng rằng nhân vật của khúc rap này là bác tài xích lô. Những từ phu xe có nghĩa khác.

Hai chữ phu và xe đều góc từ tiếng Trung Quốc. Phu là 夫 - husband, man (chồng, đàn ông) hay 伕 - porter (người đêm đồ).

Theo Từ điển Hán Việt (Vương Trúc Nhân, Lữ Thế Hoàng soạn [Hà Nội: NXB Văn hóa thông tin, 2001]) thì Phu / 夫 là 1) chồng, 2) đàn ông, 3) người lao động chân tay, hay 4) người lao dịch.

Theo Đại Nam quấc âm tự vị (của Huình Tịnh Paulus Của soạn [Rey, Curiol & Cie, 1895]) thì phu / 夫 là "chồng, tiếng xưng hô người lớn tuổi chẳng kì sang hèn." Nhưng cũng có chụm từ dân phu là "dân làm công," hay nông phu là "kẻ làm ruộng." Hay theo Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý, chủ biên [Nxb Văn hóa Thông tin, 1999]) thì nông phu là "dân cày, người làm ruộng."

Từ điển NTC's Vietnamese-English Dictionary (của Nguyễn Đình Hòa [Lincolnwood, Ill., USA: NTC Pub. Group, 1995]) có thêm những chữ như phu dịch (coolie / cu ly) phu đường (road mender / thợ sửa đường) và phu mỏ (miner / thợ mỏ).

Xe là chữ 車 hay viết đơn giản là chữ 车. Theo Đại Nam quấc âm tự vị thì xe / 車 là "đồ dùng mà chuyên chở theo đàng bộ."

Theo Chinese-Tools.com thì phu xe / 车夫 là cart driver (người kéo xe; người lái xe bò, xe ngựa). Theo Hudong thì 车夫 có nghĩa là "赶车等为职业的人" (person who pulls carts for a living / kẻ kéo xe để kiếm sống).

Theo Đại từ điển tiếng Việt thì phu có nghĩa là "người lao động bị bắt đi làm lao dịch trong xã hội cũ" hay là "người làm nghề nặng nhọc để kiếm sống" hay là "người đàn ông ở tuổi thành niên." Tôi nghĩ rằng ba ỹ nghĩa này hợp lý đối với chủ đề rap này. Phu xe là như bị bắt làm lao dịch, là làm nghề nặng nhọc, là một đàn ông đúng tuổi. Nhưng cũng có thể là người chồng.

Khúc rap này không nói gì đến việc đạp xe, những đã nói đến "chai sạn đôi bàn tay."


Ông Lựu ở Huế (nguồn VietnamNews / blog lebichson.com)

Nói chung tôi ủng hộ những tác phẩm có tính chất xã hội. Tôi sẽ nói thêm về tác phẩm này sau đây.

7 tháng 11, 2010

Rappin' and Rockin' the House (Rap và Rock cái nhà) - Funky 4 + 1 (1979)





Tôi không đủ sức để chép và dịch từng từ của tác phẩm này. Video thú vị này sử dụng đến nhiều phim tư liệu người múa nhảy để làm cảnh vui. Khúc rap kéo dài hơn 15 phút này là một trong những tác phẩm sớm nhất của thể loại này.

Nghĩa chữ "funky" là "interesting, strange; weird. Somewhat complimentary" (hấp dẫn, mới lạ, kỳ dị - đáng khen ngợi ít nhiều). Tên Funky 4 + 1 có nghĩa là 4 nam MC thêm một nữ MC. Một điều đặc biệt là họ rap với một ban nhạc rock gồm guitar, bass, trống và bộ gỗ.

Nếu nói đến tính ca từ nhạc rap lúc bấy giờ là những khúc ca khoe khoang - về khả năng rap, làm tình, kiếm tiền, về mặt đẹp trai, thân thể quyến rũ của mình, về xe mình, quần áo mình, bạn bè mình, v.v. Đây là nhạc vui tươi, ít chửi tục (khác với giai đoạn sau).

Đầu bài này họ rap "This is the way we rock the house, sho' enough everybody gonna turn it out" - có nhiều tiếng lóng. Rock ở đây có nghĩa là "Partying, exerting energy, or otherwise enjoying oneself" (làm tiệc vui, sử dụng sinh lực, hay cảm thấy khoái trá bằng cách nào khác). The house cũng là cái nhà có nghĩa là chỗ của buổi tiệc - nhà riêng, quán, hộp đêm. Sho' enough là sure enough nghĩa là for certain, positively (nhất định, rõ ràng). Về "turn it out" thì tôi không được rõ lắm - hình như là cho ra, cho phát... Có một nguồn cho rằng turn it out có nghĩa là make a record (làm đĩa - nghĩa thứ hai là have sexual intercourse - ăn nằm với nhau).

Cách MC khoe thí dụ như - "Well I'm Keith Keith, you can call me Keith Caesar, the reason why cause I'm the women pleaser" (Này tôi là Keith Keith, bạn có thể gọi tôi là hoàng đế Keith, ví lý do tôi là người làm đàn bà được khoái - Caesar là trong những vị tướng, hoàng đế lịch sử của loại người). Hay "Cause we're too hot to handle, too cold to hold, because MC stands for mind control" (Vì ta quá nóng để cầm, quá lạnh để giữ, vì MC nghĩa là điều khiển tâm trí).

Hiện nay nhạc rap ngày càng phổ biên ở Việt Nam nhưng tôi nghĩ rằng ít ai có điều kiện để tìm hiểu về nguồn gốc nhạc rap. Và tôi rất mê khúc rap và video này.

6 tháng 11, 2010

Chúc Anh Đài (Zhu Yingtai) - Viễn Châu (1960?)

Lưu thủy hành vân

Sương trắng nhuộm rừng thông vấn vương,
White mist tints the pine forest, lingering
Đưa tiễn em lên đường,
It sees me off on my trek
Nam Sơn đây chốn chia tay phản hồi gia trung,
South Mount, place of goodbye, reverting to my family
Hoa lá bay rơi rụng theo dòng,
Flowers and leaves tumble following the stream
Oanh yến vang lời ca tiễn đưa,
The oriole and swallow echo their songs of seeing off
Đôi mắt hoen lệ mờ,
A pair of bleary tear-stained eyes
Bao phen toan nói với ai những điều mai sau,
So often I meant to speak with someone of tomorrow's things
Nhưng bỗng dưng em lại nghẹn lời.
But suddenly the words are stuck in my throat.

Vọng cổ

1/ Suối biếc dãy Nam Sơn cuốn trôi từng bông hoa rụng đánh dấu buổi phân ly của Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài
The azure stream at the South Mount range swirls sets adrift each fallen jungle blossom, marking the moment of Liang Shanbo and Zhu Yingtai's separation

Cầm tay nhau trong nức nở ai hoài. Ba năm qua cùng sôi kinh nấu sử, chàng vô tình cứ ngỡ thiếp là trai. Cho đến buổi chia tay, thiếp phải về quê để thăm viếng huyên đường. Sao vẫn không nói được thành câu, trong buổi chia lìa người đi kẻ ở.
Holding each others hands during the sobbing. Three years passing together churning the classics, simmering history, he innocently believed this lass to be a lad. So that up to this moment of parting, the lass must go back to her home, visit the mater. Why can I still not speak a word at this moment of separation, one going, one staying.

2/ Suối tiễn oanh đưa não nùng hơi gió lạnh, gởi niềm riêng theo những cánh thơ hồng.
The stream sees off the oriole, plaintively, a cold breeze, it sends private feelings with rosy verse.
Hoa lá buồn trôi theo nước cuốn xuôi dòng. Chỉ hoa trôi muốn mở lời tâm sự, nhưng thiếp ngại ngùng bởi bổn phận quần thoa. Thôi từ đây hai ngã cách xa, vuông khăn gấm gởi trao người bạn cũ. Kẻ chơn mây người góc biển, thiếp mong chàng sẽ rõ được tình ta.
Blossoms, leaves sadly flow downstream with the swirling current. It's just that the flowing blossom wants to broach a confidence, but she wavers because of feminine duty. That's all, from now on there are two distant paths, a bridal veil and brocade sent to an old friend. One at the horizon the other at the ocean's edge, she wishes he was clear about our love.

Nói lối

Viên ngọc bích gởi trao nhờ sư mẫu
An emerald sent handed over entrusted to the matron
Lời tạ từ gắn bó cuộc hôn nhân
Intimate words goodbye for a arrangement of a marriage
Nửa bâng khuâng nửa khôn xiết vui mừng
Half sorrowful, half endless joy
Đây sự thật hay còn trong mộng ảo
Is it real or am I in a dream

Vọng cổ

4/ Chàng vội vã sang Chúc gia trang để cầu hôn cùng người bạn cũ sao phong cảnh dường như ủ rũ mơ... buồn. Hoa thắm tàn phai tơi tả rụng quanh tường. Bên rèm châu con oanh cũng im lìm tiếng hót, khách trang đài lả chả lệ sầu tuôn. Hỏi thuyền thuyền sắp sang ngang, hỏi nàng nàng sẽ ôm cầm ra đi. Ngày em cất bước vu quy là ngày anh ôm mảnh tình si trọn đời.
He quickly went over to Zhu's family to ask to her hand with an old friend, why is it like the scenery is doleful, a sad dream. The vivid flowers have faded, tattered, fallen around the wall. Next to the pearl curtain the oriole has silenced its song, the boudoir's guest droops, sad tears stream out. Ask the boat, the boat's about to cross over, ask her, she'll clasp her lute and leave. When I took the step to my husband's house, that was the day you clasped a fragment of mad love for your whole life.

5/ Trớ trêu chi tơ hồng Nguyệt lão, xe tơ loan sao lỡ mối sai đường. Thất thểu ra đi đứt đoạn cả can trường. Về quê cũ trong cơn mê sảng, tiếng Anh Đài theo máu nhuộm đầy khăn. Thôi còn chi một kiếp thơ sanh, yêu không trọn nên đành cam mạng bạc, gởi lại vuông khăn cho người buổi trước, máu đào tuôn đẫm ướt khăn hồng.
What prank of the Old Man in the Moon's pink thread, entwining the phoenix thread why did you miss the connection, take the wrong path. Staggering as I go severing all courage. Returning to my old home in a daze, the sound of Yingtai follows the blood tinting the kerchief. That's all, what's left of a young life who, love left unrealized, must suffer a bad fate, send back that kerchief to the person from before, peach-hued blood poured soaking the pink kerchief.

6/ Tiếng tiêu thiều giục giã gần xa, em bước lên xe hoa như đứt từng đoạn ruột. Quấn mảnh khăn tang tiếc thương người bạc phước, chốn suối vàng chàng hỡi có hay. Núi Nam Sơn là chỗ chia tay, nay chỉ thấy mộ phần chưa xanh cỏ. Em nguyện thác theo người yêu bạc số cho tròn duyên Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài. Trận cuồng phong lá đỗ cát bay, đôi hồn mộng hóa thành đôi bướm trắng. Chấp cánh bay tận cuối phương trời, cho trọn lời hải thệ sơn minh.
The sound of a sweet flute urges near and far, my step on to the flower carriage is like ceasing my vitals. Wrap a funeral veil to regret an unfortunate, back at the golden stream, hey, does he know? The South Mount is the place of separation, now you can only see a tomb not yet green with grass. Wings take flight to the ends of the earth, to realize the oath of mountains and oceans.



Tôi thử dịch bản vọng cổ để giúp một người bạn thích sưu tầm những đĩa cổ Châu Á. Anh ấy có sưu tầm được đĩa Lệ Thủy ca bài này với Năm Cơ và Bảy Bá đàn đệm. Nói chung văn chương cải lương khó dịch. Có nhiều chỗ tôi dịch quá chính xác dù biết rằng chụm từ ấy có nghĩa bóng - thí dụ sôi kinh nấu sử thì có nghĩa là chịu khó học hành mà thôi. Nếu có gì tôi hiểu nhầm thì xin độc giả tha thứ và góp ý.

4 tháng 11, 2010

Trở về bến mơ (Returning to the Dock of Dreams) - Ngọc Bích (1950?)

Ngày nào một giấc mơ
One day a dream
Đâu những đêm trăng mờ ai ngóng chờ
What of those moonlit nights, someone on the lookout
Khi áng mây thành thơ nhẹ gió đưa!
When clouds became buoyant poems sent by the wind
Theo tiếng đàn thuyền mơ tìm bến xưa
Following the guitar's sounds on a boat of dreams seeking a long ago dock

Một chiều mùa chiến chinh
One afternoon during war's season
Xuân ngát hương thanh bình say mối tình
Spring spreads a tranquil fragrance intoxicated with love
Khi ánh trăng về vui đời thắm xinh
When moonlight returned to a happy life of beauty
Bên dáng huyền thầm mơ lúc tuổi xanh!
By a jet-black figure inwardly dreaming of youthful days

Nhớ những phút sống bên nhau đêm nào?
Do you remember the minutes we lived by each other those nights?
Trăng quyến đôi tâm hồn dìu về đâu?
The moon charmed two souls taking them who knows where?
Nhớ những tiếng hát say sưa êm đềm
Remember the intoxicated, quiet singing
Tuy vắng xa nhưng lòng còn xao xuyến
Though I'm far away but my heart is still troubled

Nghẹn ngào niềm nhớ nhau
Choked with emotion, we long for each other
Thương xót ai trăng sầu bên mái lầu
Take pity upon someone in the gloomy moon by the roofs
Hay đớn đau vì câu "Chờ kiếp sau!"
Or feel pain because of the sentence "Wait until the next life"
Trăng úa màu lệ dâng ướt ngàn sao!
Fading moon, rising tears moisten a thousand stars.



TQ mới kể chuyện đi nghe ca sĩ Lệ Thu biểu diễn
cũng làm cho tôi nhắc đến giọng hát tuyệt vời này. Bên Mỹ tôi có sưu tầm nhiều băng có Lệ Thu hát. Tôi rất thích nghe Lệ Thu hát nhạc tiền chiến và nhạc Trịnh Công Sơn.

"Trở về bến mơ" đối với tôi thì là một bài ca rất đặc sắc những nét tiền chiến dù chắc bài ca này được viết thời chiến tranh. Tôi không rõ bài ca này đã được sáng tác ở khu kháng chiến (nhớ người ở đô thị?) hay được viết lúc tác giả dinh tê (và nhắc đến người còn ở vùng kháng chiến?). Nhưng nhất định đây là nhạc kháng chiến tiểu tư sản biểu lộ những cảm tình bị cấm. Tôi rất tiếc rằng lần duy nhất tôi được gặp ông Ngọc Bích tôi không hỏi về bài hát này.

Trong bài này Ngọc Bích chơi chữ rất thú vị - "nghẹn nào niềm nhớ nhau" - và đánh vần rất công phu (ngào - nhau - sầu - lâu - đau - câu - sau - màu - sao).

Giai điệu bài ca này rất hay - nghe thong thả, lơ lửng. Giọng hát của Lệ Thu thì rất trìu mến, ngọt ngào, đầy cảm xúc. Cao trào của bài ca này là lúc Lệ Thu hát "Hay đớn đau vì câu chờ kiếp sau" mình cảm thấy sởn gai ốc. Một hình ảnh vừa buồn vừa đẹp.