14 tháng 1, 2024

trích Croquis tonkinois (Phác họa Đông Kinh) - L. Yann (1889)



A un signe du maître, quatre danseuses viennent se placer sur une natte; les musiciens accroupis grattent leurs guitares, les gongs ronflent, les castagnettes crépitent pendant que le chef de ce singulier orchestre frappe sur des bambous la mesure de cette abominable musique.

Theo dấu hiệu của một thầy, bốn vũ nữ đến để xếp mình trên một tấm thảm; các nhạc sĩ ngồi xổm gảy cây đàn, tiếng cồng kêu, tiếng cặp kè réo rắt trong khi nhạc trưởng của dàn nhạc nhỏ này đánh phách theo nhịp của nhạc ghê tởm này.



Les jeunes filles sont charmantes bien qu'embarrassées par la présence des barbares; l'émotion rose imperceptiblement le safran de leurs joues; sous l'arc délié de leurs sourcils. Leurs paupières veloutées s'abaissent et ne laissent voir que le trait noir des longs cils soyeux obliquant vers les tempes. Elles se tiennent immobiles, les bras collés au corps dans une attitude hiératique ; des lanternes attachées à leurs cous montent de chaque côté de leur tête comme des antennes lumineuses; mais malgré les encouragements que nous leur prodiguons dans un annamite de circonstance elles n'osent remuer.

Các cô gái duyên dáng mặc dù có vẻ xấu hổ vì sự hiện diện của những kẻ man rợ; cảm xúc vô tình làm hồng đôi má nghệ tây của họ; dưới vòng mở của mày họ. Mí mắt mượt mà của chúng buông xuống và chỉ để cho hàng mi đen dài mượt mà xiên về phía thái dương. Họ đứng bất động, hai cánh tay sát thân mình với thái độ uy nghi; đèn lồng gắn vào cổ họ mọc lên ở hai bên đầu như rau bướm sáng; nhưng bất chấp những lời khích lệ mà chúng tôi dành cho họ trong một tình huống không rõ họ không dám khuấy động.

Enfin la prima-donna se dévoue ; sa voix chevrotante soutient une note aiguë qui brusquement tombe, grave et prolongée; ses bras tendus semblent repousser le baiser d'un amant et ses mains frémissantes font sonner les bracelets d'or qui brillent à ses poignets. Peu à peu toutes entrent en mouvement; dans les ondulations souples des corps, les péplums envolés montrent l'arc-en-ciel de leurs doublures, le satin des cai-quan luit sur la rondeur des cuisses. Elles se croisent, nouent et dénouent leurs mains, forment des figures de quadrille, bizarres et compliquées. Le préposé aux applaudissements résume l'approbation des spectateurs par un coup de tam-tam qu'il assène de loin en loin. En somme, c'est prodigieusement ennuyeux.

Cuối cùng, vũ nữ chính tự hiến mình; giọng hát khàn khàn của nàng giữ lại một nốt thấm thía đột ngột rơi xuống, sâu và kéo dài. Cánh tay duỗi ra của nàng dường như từ khước nụ hôn của người yêu và đôi tay run rẩy của nàng làm vang ra tiếng các vòng vàng tỏa sáng trên cổ tay. Từ từ tất cả bắt đầu chuyển động; trong những gợn sóng mềm mại của thân mình, những áo xiêm bay cho thấy cầu vồng của lớp lót của họ, vải nguyễn cái-quan tỏa sáng trên vòng tròn của đùi. Các cô bắt chèo, nối và mở bàn tay mình, tạo thành những hình điệu cađri, kỳ quái và phức tạp. Người động viên vỗ tay đã tóm tắt sự tán thành của khán giả bằng âm thanh tiếng chiếng mà thỉnh thoảng anh ấy đánh. Nói tóm lại, nó hết sức nhàm chán.



Que chantent-elles? De vieux poèmes populaires en langue mandarine peu intelligible; des psaumes religieux, peut-être des fragments de ce livre de la Musique si admirable au dire de Confucius; quel quefois elles daubent sur le public...

Các cô hát về cái gì vậy? Những bài thơ dân gian trong ngôn ngữ quan lại khó hiểu; văn thánh vịnh tôn giáo, có lẽ là những ca khúc ngắn từ một tập âm nhạc rất đáng phục theo châm ngôn Khổng Tử; đôi khi họ chê giễu cái công chúng...

nguồn: Yann, L. "Croquis tonkinois," [Phác họa Đông Kinh] L'Avenir du Tonkin (19 tháng 5 1889) đã in thành sách Croquis Tonkinois (Hanoi: Imprimerie Typo-Lithographique F.-H. Schneider, 1889) với minh họa của hai ông G. Léofanti và Vognier.

Không có nhận xét nào: