31 tháng 1, 2011

Đông Khê / Cao Bằng - 1950

Un avion français a pris cette photographe du village et du poste de Dong-Khé, surplombés par des pentes arides, sur lesquelles 200 légionnaires ont soutenu un combat héroique
Một máy bay Pháp chụp ảnh này của làng và đồn Đông-Khê, dọa bởi những sườn đồi khô, trên đó có 200 lính lê dương đã chịu đụng một cuộc đấu tranh anh hùng

Le poste de Caobang, qui a été récemment évacuer par nos troupes
Đồn Cao Bằng, nơi mà gần đây phải rút khỏi quân đội chúng ta


Nguồn: Lucien Bodard, "Dans les montagnes du haut Tonkin, les drames de la RC," France-Illustration (14 Octobre 1950), 404-6. [Ở vùng núi Bắc Đông Kinh, thảm kich của Quốc Lộ]


View Larger Map

30 tháng 1, 2011

Kỷ niệm 65 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9 / The 65th anniversary of the August Revolution and Independence Day, September 2

nguồn: Bích Quyên - Minh Ngọc, "Kỷ niệm 65 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9 - Còn mãi những ký ức hào hùng" Sài Gòn Giải Phóng (1 tháng 9 2010).

The 65th anniversary of the August Revolution and Independence Day, September 2
Heroic memories last forever

Nhân kỷ niệm 65 năm Quốc khánh 2-9, Báo SGGP đã ghi lại cảm xúc của những người từng chứng kiến thời khắc lịch sử thiêng liêng, về cảm xúc của công dân nước Việt Nam được tự do, thoát khỏi ách đô hộ thực dân phong kiến.

On the occasion of the 65th anniversary of Independence Day, September 2, Liberated Saigon newspaper records some emotions of some people who witnessed sacred historic times, emotions of citizens of a free Vietnam who escaped from dominating yokes of colonialism and feudalism

...

Bà Nguyễn Thị Hoài, cán bộ tiền khởi nghĩa: Hiểu được giá trị của tự do

Nguyễn Thị Hoài, a cadre before the general uprising: Understand the value of freedom

Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của mình, ấn tượng sâu sắc nhất của tôi là những ngày Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945 và ngày độc lập 2-9-1945. Tôi vẫn còn nhớ như in sáng ngày 21-8-1945, tại đình làng Thượng Cát, huyện Từ Liêm, Hà Nội, cán bộ và nhân dân xã tổ chức một cuộc mít tinh lớn với hàng ngàn quần chúng tham gia. Tại đây, đồng chí Hoàng Tùng, cán bộ trung ương tuyên bố xóa bỏ chính quyền thực dân phong kiến, thiết lập chính quyền dân chủ nhân dân. Nhân dân vui sướng tột cùng bởi từ đây Thượng Cát đã có Đảng, có chính quyền lãnh đạo sau khi đã trải qua thời kỳ chịu bao khổ cực do sự kìm kẹp đàn áp của chế độ cũ. Lớp thanh niên chúng tôi bấy giờ phấn khởi hò reo rủ nhau đi biểu tình. Cứ chiều chiều, chúng tôi lại rủ nhau đeo kiếm ra cửa đình làng tập quân sự, trong túi mỗi người lúc nào cũng có 3 bài hát Tiến quân ca, Diệt phát xít và Cùng nhau đi hồng binh.

Throughout the whole process of my revolutionary action my deepest impression was of the days of General Uprising in August 1945 and Independence Day September 2, 1945. I can remember like it's imprinted in my memory the morning of August 21, 1945 at the Thượng Cát village temple in Từ Liêm district, the cadres and people of the hamlet organized a large meeting with thousands of people participating. Here comrade Hoàng Tùng, a central cadre, announced the abolition of the feudal colonial regime and the establishment of the people's regime. The people were happy to the utmost because from now Thượng Cát had the Party and had leadership after having experienced a period of so many hardships under the detention and suppression of the old order. We youth at that time enthusiastically called out to go and protest. Every evening we urged each other with knives and swords at the village temple gate to practice military affairs, in every one's pockets there were always 3 songs Advancing Army Song, Wipe Out Fascists and Together We Go Red Soldiers.


Nguyễn Thị Hoài là một người chứng kiến lịch sử. Tất nhiên những sự kiện đổi đời như một cuộc cách mạng sẽ để lại những "ấn tượng sâu sắc nhất" (có lẽ các sự kiện đang xây ra ở Tunisia và Ái Cạp hiện nay sẽ làm ấn tượng sâu sắc nhất cho một thế hệ thanh niên ở hai nước ấy).

Tôi có thỉnh thoảng đọc những lời kể lại về Cách mạng tháng 8 và cũng đã nói chuyện với một người đến tham gia. Tất nhiên tôi quan tâm nhiều nhất đến âm nhạc của cách mạng. Mọi người đều nhắc đến hai bài ca "Tiến quân ca" và "Diệt phát xít." Nhưng trên một số bài báo trong những năm gần đây thì bài ca "Cùng nhau đi hồng binh" cũng được hiện lên trong trí nhớ của một số người như bà Hoài. Chắc chăn năm 1945 "Cùng nhau đi hồng binh" đã ra đời rồi. Nhưng theo tôi biết sự phổ biên của bài ca này bị hạn chế, chỉ có giới tù nhân chính trị biết đến.

Tôi không thấy tên "Cùng nhau đi hồng binh" nhắc tên trong các báo Thanh Niên, Độc Lập, và Cứu Quốc (những năm 1944-6) hay tạp chí Văn Nghệ (những năm 1947-54). Hình như trong tác phẩm Địa ngục và lò lửa năm 1946 Nguyên Hồng đã nhắc đến tên bài ca này (không biết bạn nào được sưu tầm tác phẩm này không?). Nhưng theo tôi biết giới âm nhạc mới biết đến bài ca này từ khoảng năm 1957 gì đó.

Bà Hoài không thuộc giới âm nhạc. Nếu bà đã làm quen với các tù nhân chính trị thì việc có lời ca của "Cùng nhau đi hồng binh" rất hợp lý. Tôi chỉ có thắc mắc vì những bài báo như "Chủ tịch Hồ Chí Minh với bài Quốc ca Việt Nam." Hồi xưa chỉ cách mạng chỉ có hai bài ca tiêu biểu. Trong những năm đầu thế kỷ 21 thì mới có ba bài.

26 tháng 1, 2011

Kỷ nguyên thứ nhất (First Epoch) - Nguyên Sa (1998)

Kỷ nguyên chưa có tiếng nói
In an epoch without speech
Bởi vì chưa có tiếng hát
For then there was yet no singing
Khởi đầu là một danh từ khác
Commence is a different noun
Về sự khác biệt mà vẫn đồng nhất
Of differences yet identical
Như sự sống và sự chết
Like life and death
Được gọi chung là hư vô,
Generally known as nothingness

Vào lúc khởi đầu đó
At that commencement
Anh cất tiếng gọi
I raised my voice calling out
Tiếng gọi là một cách nói
Calling is a manner of speaking
[Anh cất tiếng gọi]
[I raised my voice calling out]
Em đáp xuống
You came in for a landing
Tóc ướt sũng nước
Hair dripping wet
Mắt ướt sũng nước
Eyes dripping wet
Môi ướt sũng nước
Lips dripping wet
Toàn thân anh ướt sũng
My whole body's dripping wet
Ướt sũng nước cũng là một cách nói
Dripping wet is also a manner of speaking
Nụ hôn cũng là một cách nói
A kiss is also a manner of speaking
Thật ra là em,
Actually, it's you,

Anh yêu em
I love you
Chỉ là một cách nói
Is only a manner of speaking
Tình yêu
Love
Chỉ là một cách nói
Is only a manner of speaking
Những ngày tháng đó chưa có sự thống thuộc
Those days and months not yet dependent
Réo gọi và vẫy tay cũng chỉ là những cách nói
Shouting out and applauding also are manners of speaking
Anh chạy như bay
I run as if in flight
Và em đáp xuống
And you come in for a landing
Em trở mình
You turn around
Em nghiêng cánh
You slant your wings
Mây và vạt áo chao đi
Clouds and the flaps of your gown both swing
Những kỷ niệm sau gọi là vẫy tay
The memories after are known as applause
Anh lao mình chạy tới,
I hurl myself running forward,

Mắt bay lên ngay
Eyes immediately ascend
Tóc bay lên ngay
Hair immediately ascends
Đôi môi bay lên ngay
Lips immediately ascend
Mắt bay lên bỗng nhiên trở thành mây
Ascending eyes suddenly become clouds
Tóc bay lên bỗng nhiên trở thành em
Ascending hair suddenly becomes you
Đôi môi bay lên bỗng nhiên tuyệt vời vũ trụ
Ascending lips suddenly a wonderful universe
Đám mây trôi lãng đãng
Clouds lazily drift
Tóc trôi lãng đãng
Hair lazily drifts
Mắt trôi lãng đãng
Eyes lazily drift
Đôi môi trôi lãng đãng
Lips lazily drift
Vũ trụ trôi lãng đãng
The universe lazily drifts
Lãng đãng là khởi đầu thơ,
Lazily is poetry's commencement,

Kỷ nguyên em
Your epoch
Chưa có nước
With no water yet
Chưa có cả biển
With not even the sea yet
Chỉ có những ngón chân
Only has toes
Trải dài trên trái đất
Spread at length upon the earth
Từ cát
From sand
Cũng là thịt da
Also is skin and flesh
Anh nâng lên một ngón chân
I raise a toe
Anh hôn lên ngón chân
I kiss the toe
Ngón chân trôi vào cổ
The toe drifts up to my neck
Em cười
You laugh
Cuốn anh trôi đi
Spin me adrift
Biển sinh ra từ đó,
The sea came to be that way,

Chỗ nào em đi qua cũng là em
Anyplace you pass is also you
Tiếng nói vô ngôn đơn âm và độc ngữ
Inexpressible speaking, phonemes and soliloquies
Chỗ nào em đi qua anh và những hành tinh sơ khai đều gọi là em
Anyplace you pass me and the originary planets are all known as you
Tiếng nói
Speech
Tiếng hát
Singing
Âm nhạc
Music
Tiếng nói có tiếng hát
Speech also has song
Tiếng hát có âm nhạc
Song also has speech
Thuộc về một vũ trụ
Belonging to a universe
Đã bước sang kỷ nguyên thứ hai
That has advanced to a new epoch
Kỷ nguyên nữ nhân ngư
The mermaid's epoch


Nguyên Sa soạn bài thơ này thời cuối đời. Có lẽ tôi hiểu được từng chữ trong bài thơ này nhưng tôi chưa nhắm được ý nghĩa của toàn bài. Là một bài thơ tình thì không khó đoán. Hình như thi sĩ muốn viết về một mối tình căn bản, nguyên thủy - về một thời "chưa." Thời "chưa" này có nhiều nét thiên nhiên. Người "em" có khả năng bay và bơi. Cái "chưa" này cũng liên quan đến ngôn ngữ - vậy hai người tìm cách khác để trao đổi với nhau.

24 tháng 1, 2011

Ngọn lửa Mo-ri-xơn (Morrison's Flames) - Xuân Oanh (1965)

Nhanh vừa. tha thiết
Moderately fast, with feeling

Dù đời mình còn vạn người thân hay tương lai hạnh phúc trăm lần mà sao Mô-ri-xơn đã không tiếc thân anh hy sinh cả một đời xuân.
Though in his life there were thousands close to him or a life of happiness hundred-fold, yet why didn't Morrison regret his life and sacrifice the spring of his life
Lửa cháy thiêu anh sẽ rọi sáng cuộc đời từng lớp thanh niên sẽ lại thấy chân trời.
Burning fire consumed you illuminating the lives of successive generations of youth who will see the horizon.
Rồi một ngày từ lòng nhân dân nước Mỹ sẽ dấy lên bao nhiêu người vì cuộc sống đi lên
Then one day from the heart of the America people there will rise up many people for life they ascend

Chorus

Anh dũng biết bao ngọn lửa Mô-ri-xơn
So heroic, Morrison's flames
Lửa thiêu anh hét lên tiếng hờn căm.
Flames consume you shouting out your hatred
Lửa áy sẽ như vừng hào quang chói ngời
Those flames will be like a radiant halo
Đang nung sôi trái tim bao con người
That temper the hearts of many people

Từ đất xa xôi ngọn lửa Mô-ri-xơn cùng Việt Nam chống một kẻ thù chung.
From a distant land Morrison's flame with Vietnam fights a shared enemy.
Đời nhớ tên anh như anh Trỗi đất này
Life remembers his name like brother Trỗi in this land
Tên vinh quang nghìn năm vẫn sáng chai.
A glorious name, after a thousand year it will still blaze.


nguồn: Nhân dân 13 tháng 11 1965, tr. 5


Về đề tài Norman Morrison tôi chỉ biết đến 4 ca khúc. Tôi nghĩ chắc chắn đã có thêm một số bài nữa mà chưa khám phá.

Hát về Nô man Mo-ri-xơn - Lưu Cầu
Ngọn lửa Mo-ri-xơn - Xuân Oanh
Ngọn đuốc tự do - Tô Hải
Sáng mãi ngọn đuốc Mo-ri-xơn - Vĩnh Cát

Ba trong bốn tác giả này (có lẽ cả bốn - tôi chưa đủ thông tin về nhạc sĩ Lưu Cầu) đều được khen thưởng với Huân chương Chống Mỹ cứu nước hạng Nhất. Như vậy là được đánh giá rất cao.

Các bài như nhau về nhiều mặt - hai bài. Tất cả viết đến "ngọn lửa" / "ngọn đuốc," tất cả "sáng" / "sáng chói." Ba bài ca "đi lên" (bước đi lên, cuộc sống đi lên). Bài ca của Lưu Cầu và Xuân Oanh đều có ý "không tiếc đời xuân."

Xuân Oanh được cử làm Thư ký thường trực Ủy ban Bảo vệ Hoà bình Thế giới. Với chức vị này thì Xuân Oanh viết về Norman Morrison là một việc tất nhiên. Tôi nghĩ rằng thái độ "hét," "căm hờn," và "kẻ thù" không hợp với sự nghiệp đòi hòa bình của Morrison.

23 tháng 1, 2011

Nuestra Juramento (Lời nguyện chúng mình) - Benito de Jesús


Julio Jaramillo ca "Nuestra Juramento"

No puedo verte triste porque me mata
tu carita de pena; mi dulce amor,
me duele tanto el llanto que tu derramas
que se llena de angustia mi corazón.

Anh không thể nhìn em buồn bởi thế sẽ giết anh
khuôn mặt của em đau buồn, người yêu dịu dàng của anh
khóc, anh thấy xót xa nhiều nhìn giọt lệ đổ
làm trái tim anh đâu khổ

Yo sufro lo indecible si tu entristeces,
no quiero que la duda te haga llorar,
hemos jurado amarnos hasta la muerte
y si los muertos aman,
despues de muertos amarnos mas.

Anh đau xót không nổi nếu em thấy buồn,
Và không ngại rằng điều đó làm em thương tíếc
đã nguyện sẽ yêu nhau đến khi chúng mình chết
và nếu người chết yêu nhau
rồi khi chết sẽ yêu nhau thêm

Si yo muero primero, es tu promesa,
sobre de mi cadaver dejar caer
todo el llanto que brote de tu tristeza
y que todos se enteren de tu querer.

Nếu anh chết trước, em hứa
trên xác anh em thả rơi
tất cả những giọt lệ nở ra từ buồn đau em
và cho mọi người sẽ biết về tình yêu em.

Si tu mueres primero, yo te prometo,
escribiré la historia de nuestro amor
con toda el alma llena de sentimiento;
la escribire con sangre,
con tinta sangre del corazon.

Còn nếu em chết trước, anh hứa
viết chuyện tình yêu hai chúng mình
với một trái tim đầy cảm xúc;
ghi tất cả bằng máu
là mực bằng máu trái tim anh.


Julio Jaramillo là ca sĩ nổi tiếng nhất của nước Ecuador. Bài ca "Nuestra Juramente" ra đời cùng thời với phong trào dân ca mambo ở Việt Nam. Đây là nhịp điệu boléro nhanh đã cũng phổ biến ở Việt Nam. Người soạn ca khúc là dân Puerto Rico (là lãnh thổ của Mỹ). Ca sĩ và bài ca này đã được phổ biến suốt Nam Mỹ và Trung Mỹ trong các nước nói tiếng Tây Ban Nha. Tôi chưa bao giờ học tiếng Tây Ban Nha, vậy xin lỗi nếu có chi tiết nào trong bản dịch chưa đúng. Ý tôi đây là giới thiệu dân của một nước truyền thống boléro đẹp với nhạc boléro quốc tế.

20 tháng 1, 2011

Nghe em hát trong rừng (Hearing Your Song in the Jungle) - Phạm Tiến Duật (1970)

Tặng các cô gái hay hát,
sống trong rừng Trường Sơn
To the girls who often sing,
living in the Trường Sơn jungle

Nghe em hát mà anh buồn cười,
Listening to you sing I'm a riot
Nhịp với phách xem chừng sai cả;
My tapping to the beat is completely off;
Mồ hôi em ướt đầm trên má,
Sweat soaks your cheeks
Anh với mọi người nhìn nhau khen hay.
I and everyone else exchange glances and agree it's fine

Khu rừng già ầm ì tàu bay,
Old forest lands, the drone of planes
Các chiến sĩ nhìn em đăm đắm,
Warriors rapt, they stare at you
Mũ sắt lấm, áo dài cũng lấm
A soiled iron helmet, your long tunic also soiled
Mỗi khi cười, bóng dáng cứ lung linh...
Whenever you smile, your image is radiant

Có lẽ vì khuôn mặt em xinh,
Perhaps because your face is pretty
Nên tiếng hát nhòe đi không nhớ nữa,
Your voice has become blurred and I can't remember anything more
Rồi trí nhớ lại bén bùng như lửa
Then suddenly my memory's sharp, bursting like fire
Ẩn náu rất nhiều giọng hát xa xăm.
There lurk many distant voices in song.

Giữa một vùng đất bụi khô rang,
In a realm of dusty, dry-roasted earth
Em bỗng đến như dòng sông đầy nước,
You suddenly come like a river flowing full of water
Trong nhà hầm hun đầy khói thuốc
At home, a cozy trench home full of cigarette smoke
Tiếng hát chòng chành như võng đưa.
A voice sings shaking like a hammock swaying.

Các chiến sĩ nghe em hát say sưa
Warriors listen to your passionate singing
Ngày mai ngày kia sẽ chuyện trò vô khối,
Tomorrow or the next day we'll chat without limit
Giữa những câu chuyện không đầu không cuối
Among all the conversations without beginning or end
Bao nhiêu người lại nhắc đến em.
So many people will remember you.

Câu hát sẽ bay vòng qua đêm
A song that shall fly encircling the night
Mai chiến sĩ lại ra cao điểm;
Tomorrow the warriors will go out into the climax;
Cuộc chiến đấu còn đang tiếp diễn
The struggle still continues
Em còn đi, rừng mở những gian hầm.
You'll still go on, the jungle opens new trenches anew.

Tiếng hát bay vòng tháng năm
A voice that flies encircling the months and years
Ở đâu mà không cần tiếng hát,
Can there any place with no need for song
Nhưng giữa chiến trường nhiều khi thay cho nhạc
But midst the battlefield, often in place of music
Là những tâm hồn có nhạc ở bên trong.
There are souls that have music inside.

Câu hát màu chi mà khuôn mặt màu hồng
What color is a song when a face is of rose
Tiếng hát xa rồi, không nhớ nữa,
The singing is now distant, I no longer remember it,
Đốt lòng nhau cứ gì phải lửa
If we set each others hearts ablaze, what use is fire
Tiếng hát trong rừng bay xa, bay xa...
A singing voice in the forest flies far, flies far...

Nguồn: Vầng trăng và những quầng lửa - HN: Nxb Văn học, 1983.


Sức lực của tiếng hát có phải bao nhiêu? "Ở đâu mà không cần tiếng hát." Có lẽ giọng hát này không có gì đặc biệt. "Tiếng hát chòng chành như võng đưa." Nhưng cái đó là tùy bối cảnh ("Giữa một vùng đất bụi khô rang"). Hình ảnh cuối bài thơ rất hay: "Tiếng hát xa rồi, không nhớ nữa / Đốt lòng nhau cứ gì phải lửa / Tiếng hát trong rừng bay xa, bay xa." Có lẽ điều quan trọng nhất là sự "đốt lòng nhau." Có những giây phút với nhau vong lại trong những ngày tháng sau ("bay vòng tháng năm), kể cả suốt cuộc đời.

Tôi cứ nghĩ đến ca khúc "Tóc hát" mà tôi dịch cách đây dăm ba hôm. Trong bài hát thì "tóc bay" trong bài này "tiếng hát / câu hát bay." Nghĩa là có những khoảng khắc lưu lại và được dội tiếng, như hình ảnh "gió cuốn tóc thề" được lưu lại cho tâm trí nhạc sĩ.

Tôi nghĩ rằng "Nghe em hát trong rừng" là một bài thơ tình. Giống nhiều bài thơ tình khác tác giả không mong rằng "mối tình" này sẽ được thành gì cụ thể (giống như không có trong bài hát "Tóc hát" làm cho mình nghĩ rằng cảm xúc này sẽ có kết quả nào). Chỉ có những kỷ niệm làm cho tinh thần mình được ấm lên một chút - "cứ gì phải lửa." Mối tình này là một mối tình chung. Và không riêng những người hát mà là "những tâm hồn có nhạc ở bên trong" nữa. Tất nhiên đó bao gồm tất cả mọi người đang đấu tranh - đồng một chí. Thì có lẽ đây là một bài tình ca của mọi người cho mọi người? Nhưng tôi nghĩ rằng không thể tách khỏi mối xúc cảm riêng của người thi sĩ dành cho một "khuôn mặt xinh."

17 tháng 1, 2011

Tóc hát (Singing Tresses) - Võ Thiện Thanh (2006?)

Dường như ai đó ngang qua lối về, gió cuốn tóc thề
It looks like there's someone crossing the road home, wind swirls her tresses
Dường như trong gió tóc đang nói gì lắng nghe dùm tôi.
It looks like in that wind, her tresses are saying something, help me listen.
Dường như đâu đó nghe trong gió thoảng, tiếng hát mơ màng.
It looks like somewhere sounding in the waft, a voice sings dreamily
Dường như em đã lặng thầm qua đây dịu dàng tóc mây.
It looks like you passed noiselessly, your gentle, lovely hair.

Nghe như lời ca thiết tha êm đềm, một chiều im nghe tóc hát
It sounds like passionate, peaceful lyrics, an quiet evening listening to the song of your tresses
Sẽ mơ màng buổi chiều mây trôi lững lờ
It will be a dreamy evening, drifting clouds, unhurried
Lời ca bay trong làn gió...
Words sung, floating in the wind...

Phải chi mình nhẹ nhàng tựa làn mây, lướt gió êm đềm
If only I could rest lightly upon the clouds in peaceful breezes
Phải chi mình dịu dàng tựa nụ hoa, nở trong bình minh
If only I could gently rest upon a blossom blooming at dawn
Phải chi mình mềm thật mềm và suôn, sóng sánh trong chiều
If only I was really soft, really soft and easy, undulating in the evening
Để mãi vờn bay giữa bầu trời xanh đắm say cùng gió với mây
To forever frolic in the blue skies, drunk with wind and clouds.




Tôi mới nghe bản tiếng Anh của bài hát này do Đoan Trang hát với tên "Flowing Hair." Vì vậy tôi đi tìm đến bản gốc tiếng Việt "Tóc hát." Đọc các tờ báo tôi thấy nhiều người phê bình nhạc trẻ hiện nay thiếu những bài ca "vượt thời gian" như hồi xưa.

"Tóc hát" là một bài ca thật hay của thời đại này. Giai điệu ngũ cung của bài hát này linh động và dễ nhớ, dễ hát. Ca từ thì vui tươi và hợp với thẩm mỹ lâu năm của thơ và nhạc Việt. Ca từ này không kể chuyện, không tỏ tâm sự nhưng lại vẽ một bức tranh.

"Tóc hát" đơn giản là "hair sings" - bằng tiếng Anh chưa nghe hay lắm. Chữ "tress" nghe văn chương hơn, có nghĩa lọn tóc, hay tóc dài. "Tóc hát" phát triển từ một khoảnh khắc. Tất nhiên các sợi tóc phải im tiếng - giai điệu này xuất phát từ trí tưởng tượng của tác giả.

Riêng hình ảnh một cô qua trường nhìn của tác giả gây cảm hứng cho cả bài ca. Khó biết cô này là ai - người tình, hàng xóm, hay một cô chưa từng nhìn thấy. Nhưng nét dịu dàng của cô ấy tạo một giấc chiêm bao đẹp đẻ. Các nhân vật chính là tóc, gió và mây. Chữ "em" chỉ xuất hiện một lần - và chúng tôi chưa chắc lắm về em đó - "dường như em" - có vẻ như "em đã lặng thầm qua đây dịu dàng tóc mây." Chữ "đã" nghĩa là xây ra trước (trong một lát) và hiện nay chỉ lưu lại trong trí tưởng tượng của tác giả. Bài ca này cũng không có tôi / ta nào chỉ có mình - một "mình" cũng không chắc chắn lắm. "Mình" này được ao ước ("phải chi").

Tôi rất vui nhìn thấy bài ca này thành một văn hóa phẩm của quần chúng tự phát.



Kandy Klub Hà Nội 2009



Cho dạ vũ



Cho các cô sinh viên năm 2007



Cho Offline Sàn Nhạc



Cho "Tiết mục biểu diễn của Trường Đại Học Công Nghệ - Đại Học Quốc Gia Hà Nội" năm 2007



Các thanh niên "sonnt, haketu, Thái Hà, Hải An" năm 2010



Tại Cafe Acoustic Guitar gần Đại học Bách Khoa Đà Nẵng năm 2009



Các thanh niên ở Cát Bà năm 2010



Các cô ăn hạt bí đỏ hát hết mình năm 2010



Một lần nữa đàn hát ở giáo đường (năm 2010)



Ở một hộp đêm nào đó năm 2011



Genie Crew nhảy năm 2009



Trò nghịch ở giáo đường



Cô Thúy Vi ở Gia Lai (giọng hát rung như cô sợ hải)



Chương trình Công Nghệ Thông Tin năm 2010 ("Ai bảo dân IT khô khan")



Cô bé Nguyễn Ngọc Tường Vi thét năm 2008



Nhóm sinh viên hát Karaoke



Và "behind the scenes" ở Việt Nam Idol 2010

12 tháng 1, 2011

Commando (Đặc công) - The Ramones (1977)

[1, 2, 3, 4]
They do their best, they do what they can

Họ làm hết sức, họ làm đúng khả năng
They get them ready for Viet Nam
Chúng làm họ sẵn cho Việt Nam
From old Hanoi to East Berlin
Từ Hà Nội xưa đến Đông Béc-lin
Commando - involved again
Đặc công - được dính líu lần nữa

First rule is: The laws of Germany
Quy tắc một: Các pháp luật của Đức
Second rule is: Be nice to mommy
Quy tắc hai: Hãy làm tốt với mẹ mày
Third rule is: Don't talk to commies
Quy tắc ba: Đừng nói với cộng sản
Fourth rule is: Eat kosher salamis
Quy tắc bốn: Hãy ăn xúc xích salami kiểu Do thái



Nếu không hiểu kỹ thì các bạn sẽ tưởng đây là một bài ca hữu chiến, một bài ca đấu tranh chống cộng, một bài ca chủ trương đánh Việt Nam nữa. Sự thật thì ngược hẳn. Bài Commando trêu kiểu kỷ luật của quân lực và coi nhẹ chiến tranh lạnh cuối thập niên 1970. Chữ "involved" khó dịch cho chính xác - cũng có ý nghĩa như tham gia. Bài ca này được sáng tác năm 1997, sau khi Mỹ bị đuôi ra khỏi Việt Nam. Thuở ấy chữ Việt Nam đồng nghĩa với sự thất bại, hay với một chỗ mà không muốn đi. Nói là sẵn sàng đi Hà Nội và Đông Béc-lin vậy thì không hợp lý. Nhưng dù sao nữa quân đặc công luôn luôn làm hết sức, luôn luôn sẵn sàng.

Rồi các quy tắc kêu ho như ra lệnh: theo pháp luật Đức. Tay chơi ghi ta bass (tác giả bài ca này) là con của một quân nhân Mỹ và lớn ở một khu căn cứ ở Đức (Mỹ là đế quốc vậy có căn cứ khắp thế giới). Quy tắc thứ hai là như người bố nhắc nhở hãy đối xứ tốt với mẹ. Thứ ba, đừng nói với cộng sản, làm gì mà có cộng sản trong căn cứ quân đội Mỹ. Quy tắc thứ tư thì lố bịch nếu so với ba quy tắc ở trên. Tác giả bài ca cũng theo đạo Do Thái, và các người hiếu đạo chỉ được ăn thịt kiểu kosher (không được ăn thịt lợn và một số sinh vật nữa và phải có cách giết thịt rất chính xác và đúng).



The Ramones chơi nhạc rock thuần túy nhất. Có nhịp mạnh, có giọng ca thô, có âm thanh to, có cấu trúc đơn giản, không có gì điêu luyện, không có solo ghi ta. Và lúc hát ca sĩ này cố định không hát rõ chữ.

Ban nhạc Metallica cũng rất mê nhạc của The Ramones.



Tôi nghĩ rằng Gạt Tàn Đầy nên chơi cover bài này.

6 tháng 1, 2011

Tây Tiến (The Westbound) - Quang Dũng (1948)

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Oh, the Mã River is far behind you, the Westbound

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
I long for the mountains and forests, forlorn I long

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
The fog at Sài Khoa throttled the exhausted detachment

Mường Lát hoa về trong đêm hơi
The Mường Lát flowers returned in the drafty night

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Ascending upward, meandering, ascending far and highd

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Remote in cushions of cloud, guns sniffing at the sky

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

A thousand meter ascent, a thousand meters down
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
At whose house in Pha Luông in rains remote
Anh bạn dãi dầu không bước nữa

My friend, left exposed, didn't take another step
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!

Sinking, rising, gun and helmet left behind, he sacrificed himself!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét

At evening, the cataracts roared
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Nights at Mường Hịch, tigers harried them
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

How I remember the Westbound rice, steam rising
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Mai Châu, the harvest season with you fragrant with sweet rice
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

The billet sprang into a festival, torches and flowers
Kìa em xiêm áo tự bao giờ

There you are, your dress blouse of the ages
Khèn lên man điệu nàng e ấp

On a mouth organ a savage tune rises, she's timid
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Music takes you back to Vientiane, it builds a poetic soul

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Whoever went to Châu Mộc that foggy evening
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Did you see the reed's soul at the river shore's byway
Có nhớ dáng người trên độc mộc

Do you remember his form on the dugout
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa…
Flowed with the torrential water's current, flowers trembled
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

The Westbound, a detachment, pates where not a hair grows
Quân xanh màu lá dữ oai hùm

An army of tincture leaf green, terrible majestic tigers
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Eyes that menace send their dreams over the border
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

At night dreaming of Hanoi, its perfumed fair graces
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Left scattered at the border, the tombs of a far-off land

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
To the front they went, giving no thought to their youth

Áo bào thay chiếu, anh về đất

Dressing robe exchanged for a mat, you returned to the earth
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
The Mã River roared forth in its solitary procession
Tây Tiến người đi không hẹn ước
The Westbound, they've gone without a promise

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

The road rises deeply, a parting
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Whoever went up Westbound that spring
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Their souls returned to Xam Nua, never came back downstream

(Phù Lưu Chanh, 1948)


"Tây tiến" của Quang Dũng chắc được rất nhiều người Việt học thuộc lòng. Còn nữa bài thơ này cũng được phân tích nhiều vì các thí sinh và học và ôn lại để chuẩn bị viết tiểu luận.

"Tây tiến" là một bài thơ thời chiến, nhưng không có trận chiến, không có quân thù. Theo tôi hiểu đây là chuyện các thanh niên tạch-tạch-sè Hà Nội nhận nhiệm vụ đi lên vùng rừng thiệng, nước độc để liên kết với dân quân Lào. Đây là một chuyến đi mạo hiểm đầy gian khổ và Quang Dũng viết rất tự nhiên về sự mất mát của các người cùng đơn vị với ông. Đa số các địa danh với những tên gọi lạ tay trong bài thơ này nằm ở trong đất Việt -- ở Thanh Hóa, ở Sơn La...

Có lẽ số phận đáng sợ nhất là bị chết và chôn ở vùng heo lánh, xa quê, xa đất tổ. Vậy các người đọc câu "Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi" cũng thấy xót thương. Và chết kiểu "dãi dầu không bước nữa" không phải một cách chết oai hùng, vinh quang, nhưng chắc Quang Dũng viết đúng sự thật.

Tại sao lại "nhớ chơi vơi"? Vì các nhóm người trải qua những thử thách mà các người khác không trải qua và không thể nào hiểu và thông cảm đầy đủ. Đây là những kinh nghiệm rèn đúc tinh thần con người. Dù Quang Dũng viết một bài thơ thật hay miêu tả chuyến đi này, các độc giả vẫn chưa được hiểu biết gì mấy về chuyến mạo hiểm gian khổ này. Quang Dũng chắc cũng viết bài thơ này làm tưởng niệm cho các người cùng đơn vị "chẳng tiếc đời xanh" và "bỏ quên đời" ở miền xa xôi này.

Nhưng trong gian khổ cũng có những kỷ niệm, những hình ảnh đẹp tuyệt vời - hoa nở đêm, "thác gầm thét", "cồn mây", "hồn lau nẻo bến bờ." Có một người nói với tôi rằng các nhà tiểu tư sản bị coi là những người "không đến với cách mạng đến cùng." Quang Dũng dù nhận và làm trọn nhiệm vụ nguy hiểm này vẫn không thể bỏ những thói quen dân thành thị - vẫn mơ đến "Hà Nội dáng kiều thơm." Còn ông cũng rung động trước cảnh các "em thơm nếp xôi" các "em xiêm áo tự bao giờ
."

Các nền văn minh có nền kinh tế vật chất được phát triển cao cũng có thói nhìn các nền văn minh chưa phát triển như còn thơ ấu, như người em. Các nước Châu Âu coi các nước thuộc địa như con nít cần đến sự nuôi dưỡng và hưởng dẫn của văn minh Tây. Và cách sống, nền nếp của người đất thuộc địa bị xem một mặt là nguyên thủy, lạc hậu, và chưa khoa học, và mặt khác là quyến rũ và kỳ lạ. Nước Mỹ cũng có thái độ tương tự với người da đỏ, và người dân tộc Hawaii. Và quan hệ anh em giữa Trung Quốc và Liên Xô với Việt Nam chắc cũng có ít nhiều nét này. Dù nước Lào và các dân tộc miền núi và dân Kinh có quan hệ thân thiết bao nhiêu, nhưng các dân bản xứ cũng có nét quyến rũ và kỳ lạ trong mắt người vùng đồng bằng Việt Nam. Cái ý "tự bao giờ" nghĩa là ngàn đời không có gì thay đổi, không phát triển hay biến đổi. Quang Dũng cũng nhắc đến "Khèn lên man điệu" như về một bộ lạc, chủng tộc từ ngàn xưa. Nhà thơ không ác ý gì nhưng chỉ mô tả những kinh nghiệm xa lạ có hương vị đẹp tuyệt vời. Và nhạc "man điệu" chắc làm cho cảnh "rừng thiệng nước độc" thêm linh động và sặc sỡ.

2 tháng 1, 2011

Cám ơn (Thank You) - Ngân Khánh (1971)

Này là cánh thư, nghiêng nghiêng nét chữ cô em học trò.
Here’s a letter, the tilted letters written by a schoolgirl's hand
Này là bánh chưng, mẹ già tự tay gói gửi cho con.
Here’s a New Year’s cake, made by old mother’s hands wrapped up for her child
Này là áo len, bao nhiêu đêm thâu em ngồi em đan.
Here’s a sweater, so many long nights love, you sat and sewed it.
Nay em gửi ra tới chiến trường, mang chút tình hậu phương thương mến.
You’ve sent these to the battlefield, with a little love from the behind the lines.

Ngồi đọc lá thư, đơn sơ tha thiết văn chương học trò.
Reading the letter, simple and sincere, in a schoolgirl’s prose
Nhìn cặp bánh chưng, mà lòng chợt thương mẹ già xa xôi.
Looking at the pair of cakes, my heart suddenly feels for my old mother far away
Mặc vào áo len, bâng khuâng tôi nghe trong hồn chơi vơi.
Wearing the sweater, anxiously I feel unsettled in my soul
Xuân đang về trên khắp đất trời, nhưng tất cả xuân là ở đây.
Spring has come back all over the world, but all of spring is right here.

Tôi xin cảm ơn người, cảm ơn ai
I beg to thank you, thank anyone
Đã đem luyến thương nồng ấm đến với lính
Who has brought warm affection to a soldier
Cảm ơn ai, khi xuân về vui thật là vui,
I thank anyone when spring returns, it's true happiness,
Không quên người sương gió phương trời,
Hasn’t forgotten those in the wind and fog out there at the horizon
Âu yếm người tình đi muôn nơi.
Expressing affection to lovers to all places.

Thật nhiều mến thương, tâm tư tha thiết tôi xin gửi về.
Truly so much love, sincere feelings I ask to send back in return.
Gửi mẹ kính yêu, vài lời của con chúc mừng năm nay.
Send to beloved mother, a few words to celebrate this year.
Và gửi đến em, bao nhiêu yêu thương anh dành cho em.
And to you love, so much love that I have only for you.
Khi xuân về, xin hãy yêu đời. Ta đón đợi, xuân nồng ngày mai...
When spring returns, please love life. We await, the warm spring of tomorrow...


Ngân Khánh là một tên bút của Nhật Ngân - cũng là tên con gái ông (Duy Khánh rất thân với gia đình ông). Bài ca này có tính chất rất "Duy Khánh."



Xem hình ảnh Duy Khánh ngoài 60 tuổi hát bài ca này có lẽ không hợp với logic. Nhưng phong cách biểu diễn rất phù hợp với ý của ca từ này. Nhân vật này tự chọn đi miền xa xôi để bảo vệ một cuộc sống mến thương. Xa người thân thì có "bâng khuâng," "chơi vơi." Nhưng ông lính này được vui vì sự ủng hộ tinh thần của các phụ nữ thân yêu nhất qua các quà đơn sơ để đón Tết.



Mới đây hơn có Trường Vũ hát bài "Cám ơn" trên băng Asia 39. Trường Vũ hát và đóng vai cũng hay. Thực ra cách biểu diễn Trường Vũ bị nặng về xúc cảm hơi nhiều.

Có lẽ câu gây ấn tượng nhất với tôi trong ca khúc là: "Ngồi đọc lá thư, đơn sơ tha thiết văn chương học trò." Người lính này không lấy vợ quý tộc mà lại thương một người đậm đà, thật thả. Nét nhạc hay nhất đến với câu "Tôi xin cảm ơn người, cảm ơn ai." Nhật Ngân kéo dài các chữ "cảm" và "người" như ngừng lại lơ lửng một chút để làm cho điệp khúc gây ấn tượng.

Vì riêng một chữ "lính" chắc bài ca này chưa được cấp phép hát ở Việt Nam. "Lính" dù không phải một lời xấu cứ bị cấm kỵ có lẽ vì có người vẫn lo về quân lực một chế độ đã biến đi hơn 35 năm rồi. Tôi nghĩ ở trong nước Việt vẫn còn bộ đội / chiến sĩ / lính "sương gió phương trời" nghe và hát bài ca "Cám ơn." Bây giờ bài ca "Cám ơn" là độc quyền của người Việt hải ngoại. Tại sao Việt Nam không chiếm bài ca này -- hát trên TV với nam ca sĩ đội mũ cối? Ý nghĩa của bài ca này rất tốt. Lính Việt được tôn trọng trong xã hội Việt.

1 tháng 1, 2011

Music in American Life: The Good Life - Jason Gibbs (1989)



Tạm dịch là "Âm nhạc trong đời sống Mỹ: Cái đời sống hay", đây là một tác phẩm của tôi sáng chế năm 1989. Tác phẩm này được tôi biểu diễn lần duy nhất là mùa hè năm ấy tại một chỗ gọi là Sonic Temple (Miếu Âm Thanh) tức là Masonic Temple (Miếu Hội Tam điểm) ở Wilkinsburg, Pennsylvania.


Masonic Temple, 747 South Avenue, Wilkinsburg, PA

Đây nhất định không phải là nhạc phổ thông. Phải nói đây là nhạc cũng khó nghe và dài dòng (34 phút 42 giây). Tôi sáng chế nhạc nền trong một băng gồm âm thanh điện tử, đài phát thanh và vật dụng âm thanh (sound effects), rồi tôi thổi kèn bassoon ứng tác ở trên.