28 tháng 8, 2015

Cung đàn xưa (Lute of Old) - Văn Cao (1943)

Valse moderato

Hồn cầm phong sương hình dáng xuân tàn.
The lute's spirit of wind and fog formed at spring's end.
Ngày dần buông trôi sầu vắng cung đàn.
Days gradually cast off their melancholy absence.
Từ người ra đi chờ vắng tin người,
Since she left there's been no news of her
Từ người ra đi là hết mơ rồi!
Since she left I've run out of dreams!

Cung thương là tiếng đàn,
The D string is the lute's sound
Cung nam là tiếng người.
The southern mode is her voice
Ai oán khúc ca cầm châu rơi,
Aggrieved, the music of the singer and lute, rod striking drum
Tình duyên lãng đãng nhớ thương dần pha phôi.
Love's ties are unsteady, full of longing then gradually wither and fade.

Cung đàn ngân buồn xa vắng trong tiếng thầm,
The lute's music sadly resonates far and wide in a concealed whisper
Buồn tê tái trong tiếng ngân,
Plaintive in its vibration
Buồn như lúc xuân sắp tàn!
Sad like when spring is about to end!

Ơi đàn xưa!
Oh lute of old!
Còn vang nhắc chi tới người lòng ta tắt bao thắm tươi u hoài duyên đưa.
You still ring out, recall her, our heart's warmth quells, longing once brought by love's grace

Chiều năm xưa gót hài khai hoa mắt huyền lưu xuân dáng hồng thơm hương.
A long ago afternoon the heel of those dainty boots broke out in bloom, those deep black eyes held on to spring in the form of a fragrant rose.
Chiều năm nay bóng người khơi thương tiếng đàn gieo oan giấc mộng chàng Trương.
A long ago afternoon someone's image engendered love, the lute's sound cast groundless blame on fisherman Trương's dreams.

Giờ còn mong chi người hát theo đàn,
Now what hope is there of she who sang with the lute,
Giờ còn mong chi hợp cánh hoa tàn.
Now what hope is there to join with the fading flower
Lời đàn năm xưa se kết đôi lòng.
The lute's utterance long ago spun together two hearts.
Lời đàn năm nay đôi lứa xa vời.
The lute's words of today; a devoted couple far apart
Khi hôn hoàng xuống dần
As twilight slowly falls,
Trăng lên vàng mái lầu.
The moon ascends, golden, over the palace.
Nghe thoáng tiếng kinh cầu xa xa.
I hear faint sounds of prayer a little way off.
Ngàn lau thấp thoáng bóng kinh kỳ sầu bao la.
Through the woods and reeds, the capital's shadows flicker with vast sadness.

nguồn: Thiên Thai: Tuyển tập nhạc Văn Cao, Nxb Trẻ, 1988.

Tôi tiếc rằng tôi chưa tìm được bản nhạc "Cung đàn xưa" của Tinh Hoa xuất bản năm 1955.  Văn bản sớm nhất mà tôi được sưu tầm được in trong tập nhạc Thai Thai năm 1988 - một năm trước khi Cục Văn Hóa và Múa cấp phép "Cung đàn xưa" được phổ biến ngày 15 tháng 10 1989 (xem báo Thanh Niên 12 tháng 11 1989).

Lý do tôi muốn kiểm tra bản nhạc xưa của "Cung đàn xưa" là các ca sĩ thời Việt Nam Cộng Hòa và thời tiền Việt Nam Cộng Hòa hát bài ca này rất khác với nốt nhạc của các tập nhạc sau.  Tôi nghĩ rằng phải coi văn bản trong tập nhạc Thiên Thai (và trong tập nhạc Ca khúc Văn Cao, Nxb Âm Nhạc, 1994) như là văn bản chính thức.  Vậy phải coi như các ca sĩ như Mộc Lan, Thái Thanh, Anh Ngọc, Mai Hương, Thanh Lan rồi gần đây hơn Ánh Tuyết không hát đúng ý Văn Cao.

Có lẽ họ hát khác vì họ học theo những nốt nhạc khác?  Hay họ hát chuyển miệng?  (Phạm Duy là người có vai trò lớn về việc phổ biến nhạc Văn Cao.  Có lẽ mỗi người hát theo kiểu Phạm Duy hồi xưa?  Mộc Lan thu "Cung đàn xưa" trong đĩa Philips trước khi Tinh Hoa xuất bản bài hát này).

Một lý do nữa là việc hát bài "Cung đàn xưa" theo đúng nốt nhạc của Văn Cao không dễ.  Bài này đòi một giọng ca có âm vực rộng - một quảng tám thêm quảng sáu trưởng.  Tuy thế mà hát đúng nốt như trong tập nhạc ấy thì giai điệu của Văn Cao được phù hợp với hòa âm nhiều hơn.  Trong những năm 1950 Mộc Lan thu bài hát này với một giọng ca trong trẻo, nhưng có những nốt trong giai điệu nghe không ổn với bản hòa âm.

Trần Thái Hòa hát "Cung đàn xưa" rất chuẩn:


"Cung" là nốt nhạc, là âm thanh.  Chính xác là nốt nhạc, âm thanh của một đàn gẩy của nhạc cổ Việt Nam hay Trung Quốc.  Phải chăng chữ "đàn" cũng có thể được hiểu như là đàn ghi ta, đàn măng-đô-lin của tân nhạc ("Cung đàn xưa" là một tác phẩm tân nhạc, và phản ánh tâm tính của người hiện đại)?

Xưa là một từ không chính xác.  Ngày xưa xa xôi có nghĩa là cách đây nhiều thế kỷ? Hay ngày xưa thuộc vào quá khứ của người kể?  Vì bài ca này phụ thuộc vào những sự kiện xây ra trong đời sống tình cảm của tác giả thì ý nghĩa thứ hai chắc đúng hơn.  Nhưng nếu hiểu "xưa" theo chung hai ý nghĩa thì cuộc tình này cũng có chất huyền thoại (đừng quên "giấc mộng chàng Trương.")

Nội dung "Cung đàn xưa" thuộc về việc pha phôi, tàn, xuống dần, xa vời.  Nhưng mặt khác là cung đàn ấy khi ngân cũng là cội nguồn của các cái ở trên.  Tiếng đàn còn kêu, tình yêu hiển lên rồi mất dần.

Giống như đại đa số các ca khúc thời nhạc cải cách (và đa số ca khúc Việt đến bây giờ) thì "Cung đàn xưa" thiếu các dấu khó chép theo nhạc tây phương là dấu hỏi và dấu ngã.  "Cung đàn xưa" không có từ dấu hỏi nào cả.  Và chỉ có chữ dấu ngã là "lãng đãng" - "ở trại thái di động chậm chạp, nhẹ nhàng, khi ẩn khi hiện, khi gần khi xa, mờ mờ ảo ảo" (Từ điển Tiếng Việt, Trung Tâm Từ Điển Học, 2007).  Nàng vắng, nhưng nàng lại xuất hiện trong âm thanh. Hai chữ dấu ngã phản ánh ý nghĩa ở trên (ngân ra, rồi pha dần) một cách rất thú vị.  Lúc còn dấu vết tình thương thì hiện, mất niềm tình thương ấy thì ẩn.  Nhìn mái lầu dưới trăng biết nàng vừa gần, vừa xa.  Bóng kinh kỳ cũng ẩn, cũng hiện.

Giai điệu của "Cung đàn xưa" đẹp.  Lời ca cũng đẹp.  Nhưng tôi nghĩ rằng lời ca và giai điệu không hợp với nhau.  Xúc cảm của nhịp điệu valse là nhẹ nhàng, vui vẻ.  Điệu valse có hợp với lời "Cung đàn xưa" về hai điều là điệu valse từng có chất "quý tộc," và cũng phản ánh sự hoài cổ.  Song lẽ giai điệu của "Cung đàn xưa" nên như thế nào?  Soạn một giai điệu như "Đêm tàn Bến Ngự" chắc không được.  Như vậy ta có một bài ca có nhiều nết thú vị, nhưng cũng khó thể hiện.

22 tháng 8, 2015

Mười năm (Ten Years) -Trần Huyền Trân (1939)

Biết nhau từ thuở dại khờ
We've known each other since our awkward youth
Giờ đây cát bụi đã mờ mắt chong.
Yet now dusty sand dims clear eyes
Nhánh hồng em chiết bên sông
Your rosebranch grafted at the riverside
Đã mười xuân rụng mười bông hoa cười
Through ten springs there fell ten laughing blossoms

Con chim bạc-má già rồi
The tomtit is old now
Mỏ vàng đã nhạt hết lời thơ xanh
Its yellow beak has faded, run out of youthful verse
Còn gì nữa ở lều gianh?
What's left at the thatched cottage?
Ở lòng em, ở lòng anh còn gì?
In your heart, in mine, what's left?

Tương-phùng là để biệt-li.
An encounter in order to separate.
Biệt li là một người đi qua lòng!
Separation is someone walking past someone's heart!
... Giờ thuyền em đã sang sông
Now your boat crosses the river
Anh nhìn khói sóng ngờ trông mây đèo.
I see mist in waves, as if seeing clouds in a mountain gorge.

Mười năm..., mới hiểu tình yêu:
Ten years..., just beginning to understand love:
Một nguồn hương nhẹ mây chiều gió đưa.
A source light fragrance, evening clouds attended by the wind.


nguồn: Tiểu thuyết Thứ bảy #271 (12 tháng 8 1939), 16.

19 tháng 8, 2015

Chủ nhật trời mưa (Sunday Rain) - Thanh Tâm Tuyền ̣(1977-8)

Chờ cơm ôm bụng lép đo giường
Muốn sang chơi bạn sợ người trông
Đổ trận mưa giông trời tối sập
Buông sách ngồi lên ngó trống không

I await food, cradle my empty stomach lazing in bed
Like to go over to visit a friend, yet afraid of being seen
A pouring deluge, the skies are black and press in
Lowering a book, sit up and gaze into emptiness

Viết ở Lào Cai 1977-8

nguồn: "Thơ ở đâu xa," talawas 15 tháng 2 2007


Tạ Tỵ kể:

Sáng nay, tôi sang thăm Tuyền vì thấy cửa mở.  Vừa sang đến nơi, Tuyền đã cười khà khà:

-- Chiều qua, nhớ cậu, làm được mấy câu thơ đây.
-- Đâu, đọc lên nghe. Nhưng còn thuốc lào không?

...
Tôi vê thuốc cho vào nõ, châm lửa rít một hơi dài, thở khói xanh um, cả người bần thần ngây ngất vì đã lâu mới được điếu thuốc ngon.  Tôi đưa điếu cho Tuyền.  Nhồi tuốc xong, Tuyền cũng kéo hơi dài, thật dài nuốt luôn khói.  Đôi mắt Tuyền lờ đờ như đắm chìm vào chuyến viễn mơ!  Sau khi hả cơn say, Tuyền đọc:

Chờ cơm ôm bụng lép trên giường
Muốn sang thăm bạn cửa gài then
Chiều đổ cơn mưa, trời xập tối
Buông sách ngồi lên, ngó trống không

[I await food, cradle my empty stomach lazing in bed
Like to go over and visit a friend, the door's latched, barred
A pouring deluge, the skies are black and press in
Lowering a book I sit up, gaze into emptiness]

Tôi nói với Tuyền:

Đời chúng mình, lúc này chẳng có gì để nhìn ngắm.  Sau hơn 2 năm bi đầy ải, miệng lời đã tê mùi tân khổ, con gì để ngóng đợi?  3 chữ "ngó trống không" nó cho tôi nhìn thấy hư vô, nhìn thấy cái cõi "Bất khả tư nghị" của Chân Như.  Nó thâu tóm được biết bao nhiêu hình ảnh của kiếp sống phù du, công danh và sự nghiệp nào đó, mỹ mãng cân đai nào đó, cũng chỉ là hư ảnh, có đúng vậy không cậu?

-- Vì thế tôi mới tặng riêng cậu 4 câu thơ đó!

Tôi đi về vì sợ cửa bị khóa trái bất ngờ.  Tôi cầm mẩu giấy có 4 câu thơ trong tay như giữ một kỷ niệm vô cùng thân mến.

Tạ Tỵ.  Đáy địa ngục (San Jose, CA: Thằng Mõ, 1985), trang 479-480.


chủ nhật trời mưa
Tặng T.T.

Chờ cơm ôm bụng lép đo giường
Muốn sang chơi bạn cửa niêm phong
Đổ trận mưa giông trời tối sập
Buông sách ngồi lên ngó trống không

I await food, cradle my empty stomach lazing in bed
Like to go over to visit a friend, the door's sealed tight
A pouring deluge, the skies are black and press in
Lowering a book, sit up and gaze into emptiness

nguồn: Thanh Tâm Tuyền, Thơ ở đâu xa (Trầm Phục Khắc xuất bản, 1990)

15 tháng 8, 2015

Gửi Đà-nẵng (To Đà Nẵng) - Lưu Quang Vũ (1975)

Ơi Đà Nẵng quê cha
Oh Đà Nẵng, my father's home
Mấy mươi năm xa cách
A couple of decades away
Vị mật ong của nàng
Her honey flavor
Phập phồng vinh biển xanh
The heaving of the bay and its blue waters
Mưa trăng núi Ngũ-hành
Moonlit rain at Five Elements mountain
Đèo Hải-vân mây phủ
Ocean Cloud pass cloaked in mist
Bến sông thuyền tôm cá
River docks, boats with shrimp and fish
Chợ Cồn dưa hấu thơm.
At Dune Market fragrant watermelon

Nhà ta ở Hải-châu
My house is at Hải Châu
Cạnh ga và cạnh biển
Next to the train station, next to the sea
Bà ta thương dậy sớm
My loving grandmother woke up early
Bán hàng phiên chợ đông
Selling goods for her session at the crowded market

Một dánh thuyền trên sông
A vessel's shape on the river
Tiếng trống chầu hát bộ
The praise drums ringing at the Chinese theater
Một câu thơ máu ứa
A line of poetry streaming blood
Ngày Pháp chiếm cửa Hàn
The day the French took the Hàn River estuary
Lòng ông Ông Ích Khiêm
Sir Ích Khiêm's heart
Như mảnh trăng sáng quắc
Like a dazzling sliver of moon
Đà-nẵng ơi Đà-nẵng
Oh, Đà Nẵng, Đà Nẵng
Phượng hồng trên lối đi
Poinciana's along the path
Lòng ta vẫn nhớ về
My heart still knows the way back
Như thủy triều sóng mạnh
The tides with their strong waves
Biết nội giời ra sao
I wonder how things in the interior are
Bao năm dài chia cắt?
After being cut off for so many years?
Giặc chiếm núi Ngũ-hành
The enemy seized the Five Elements Mountain
Mở sân bay Nước Mặn
Opened an airport at Saltwater
Pháo Mỹ bên Vĩnh-diện
American cannons at Vĩnh Diện
Bắn trụi những làng xanh
Fired wiping out green villages 
Nhưng Đà-nẵng yêu thương
Yet beloved Đà Nẵng
Có bao giờ khuất phục
Never did submit
Mỹ tới rồi Mỹ cút
Americans came then Americans hightailed it out
Quê mình vụt lớn lên
My homeland suddenly grew up

Hà Nội đang mùa xuân
Hanoi's in the midst of spring
Báo tin vui tới tấp
Joyous news galore
Từ Quảng Trị, Tây Nguyên
From Quảng Trị, the Central Highlands
Huế, Thừa-thiện Quảng-đức
Huế, Thừa Thiện và Quảng Đức
Bỗng chiều nay tin về
Suddenly this afternoon comes the news
Đà-nẵng mình giải phóng
Our Đà Nẵng is liberated
Quận ta từ Vĩnh-diện
Our soldiers from Vĩnh Diện
Quận ta từ Hòa-vang
Our soldiers from Hòa Vang
Từ Liên-chiều Hải -vân
From Liên Chiều, Ocean Cloud pass
Băng qua cầu Thủy-tú
Cross the Thủy Tú bridge
Băng qua trấn Nam-ô
Cross Nam-ô town
Tiến thẳng vào thành phố...
Advance right into the city
Tiếng loa vang đầu ngõ
Loudspeakers echo at alley entrances
Hàng xóm nắm tay nhau
Neighbors clasp each others hands
Mừng vui lòng nghẹn ngào
Overjoyed, hearts choking with emotion
Nhà không ai ngủ được
Not a single home can sleep

Mẹ nhớ thằng em trai
A mother misses our younger brother
Đang trong Quân giải phóng
Who's part of the Liberation Army
Ngờ đâu cả nhà ta
Who could have known that in our entire family
Em về quê trước nhất
He'd return home first

Gạo cạnh cao đỏ rực
The neighboring cotton tree ablaze in red 
Bát ngát đường mùa xuân
Endlessly spring's road
Trong gió lộng sông Hồng
In the gusts of the Red River
Ngỡ gió khơi Đà-nẵng
Who knew it was Đà Nẵng's sea breeze
Cờ ta như chim lớn
Our flag flies like a large bird
Bay khắp bờ biển xanh
Flying through the beaches of blue seas



Quê Lưu Quang Vũ là Hải Châu, Đà Nẵng và chắc lúc soạn bài thơ thì nhà thơ này đã chưa từng đến Đà Nẵng.

4 tháng 8, 2015

Quảng Lạc tối thư 15 juin 1927

Quảng Lạc
Tối thứ tư 15 juin 1927

Thu giá thường

Kiều (2)

Các ngài ao ước muốn nghe tuồng cải lương, mà nhất là Kiều (2) thì các ngài lại càng ao ước lắm.  Vậy phải lĩnh ý mà diễn lại lần này. lại chính Soạn giả là M. Nguyễn-văn-Tệ, coi lấy các lớp và thêm nhiều bài ca mới.

nguồn: Hà Thành ngọ báo Juin 15 1927, 2


Nguyễn Văn Tệ là một người miền Nam lên Hà Nội học ở Trường Đại Học.  Sách sử về cải lương miền Bắc cho rằng ông ta là người giới thiệu hát cải lương với khán giả bắc kỳ.  "Nhiều bài ca mới" có nghĩa gì?  Rất có thể là nhạc Pháp với lời Việt Nam.

2 tháng 8, 2015

gặp người Mỹ chỉ cần biết 5 câu này

Những tiếng thông thường dùng để bắt tù binh Mỹ

Xơ-ren-đơ, nót kin-đờ (Hàng thì không bị giết)
Xơ-ren-̣đơ, oan-tờ-rít (Hàng được đối xử tử tế)
Han-tờ (Đứng lại)
Gân đao-nờ (Bỏ súng xuống)
Hen-xờ ấp (Giơ tay lên)

Ghi chú: -- Chữ đậm đọc to, mạnh hơn.
             -- Đánh vần đđúng theo phiên âm.

Nguồn: Quân Giải phóng (5-2-1967), tr. 3.

tiếng Anh (phát âm)

Surrender, not killed (Surrenda not kind)
Surrender, want to read (Surrenda wan tu writ)
Halt (Hant)
Gun down (Gun downa)
Hands up (Hensa up)

Cái câu "đối xứ tử tế" rất lạ.  "Oan-tờ-rít" không được rõ nhưng tôi nghĩ phải phát âm như "want to read" (bạn muốn đọc sách không?).  Bây giờ các câu ở trên là như tiếng nói của găngstơ.